Sự Tiến Hoá Của Chính Sách Đối Ngoại Việt Nam Trong Thời Kỳ “Đổi Mới”

(Trích trong Chuyên mục “Mỗi tuần một chương sách” của Bản Tin Biển Đông Số 129. Truy cập tại https://dskbd.org/2023/11/15/ban-tin-bien-dong-so-129/)

Alexander L. Vuving (2023) The Evolution of Vietnamese Foreign Policy in the “Doi Moi” Era. Trong Börje Ljunggren & Dwight H. Perkins (Eds.), Vietnam – Navigating A Rapidly Changing Economy, Society And Political Order, (pp 347-369). Cambridge: Harvard University Press.

Dự án Đại Sự Ký Biển Đông đã từng giới thiệu chương sách trên trong một chuyên đề đặc biệt về chính sách đối ngoại của Việt Nam. Phiên bản chúng tôi giới thiệu khi đó là dạng bản thảo. Hiện giờ chúng tôi đã có được phiên bản chính thức được in trong cuốn sách được biên soạn bởi Dwight Perkins và Börje Ljunggren. 

Chương sách tổng kết và phân tích sự phát triển của chính sách đối ngoại của Việt Nam kể từ những năm 1980, cũng như làm sáng tỏ thế giới quan và động cơ đằng sau những quyết sách đối ngoại của Việt Nam. Tác giả lập luận rằng sự tác động qua lại giữa những thay đổi quốc tế và chính trị trong nước đã ảnh hưởng đến quỹ đạo chiến lược của Việt Nam, dẫn đến một lộ trình ngoằn ngoèo với năm dòng chảy chính sách qua bốn bước ngoặt quan trọng. Mỗi bước ngoặt đó được tạo ra bởi những chấn động có tính cột mốc bên ngoài đã làm thay đổi căn bản môi trường tìm kiếm tài nguyên, an ninh và căn tính của Việt Nam, dẫn tới những thay đổi cả chính sách đối nội và đối ngoại của Việt Nam. 

Bước ngoặt thứ nhất vào năm 1986 khi diễn ra khủng hoảng sâu sắc và cải cách quy mô lớn trong khối Xô Viết. Về mặt đối nội, Việt Nam cũng phải đối mặt với khủng hoảng kinh tế nghiêm trọng vào cuối những năm 1970 sau những cuộc chiến tranh liên tiếp. Tư duy cải cách của Mikhail Gorbachev đã thúc đẩy sự gắn kết và tính hợp lý của thế giới quan mới, phá vỡ quan điểm chính thống đã định hướng hành vi của nhà nước kể từ cuối năm 1940. Tháng 12 năm 1986 đã đánh dấu một cột mốc quan trọng trong lịch sử phát triển của Việt Nam, khi Đại hội VI Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền đã nâng “đổi mới” thành “sự nghiệp lớn,” mở ra thời kỳ cải cách trong những năm tiếp theo. Trong ba năm đầu tiên sau khi thực hiện Đổi mới, cho đến năm 1989, định hướng chung của nền chính trị Việt Nam là một nhà nước tân Stalin đang cải cách, đặt quốc gia lên trên chính trị đảng phái. Dòng chính sách này, lấy cảm hứng từ sự thành công của các nước công nghiệp hóa mới ở Châu Á – Thái Bình Dương, mong muốn hiện đại hóa và công nghiệp hóa đất nước và nhìn thấy cơ hội lịch sử để đạt được những mục tiêu này trong xu hướng toàn cầu hóa và cuộc cách mạng công nghệ đặc trưng của thế giới đương đại.

Dù vậy, dòng chính sách mang hơi hướng cải cách không triệt tiêu tư duy quan điểm cũ. Sự sụp đổ của Chủ nghĩa Cộng sản vào năm 1989 đã dẫn tới sự trỗi dậy trở lại của xu hướng chống phương Tây. Từ năm 1989 đến năm 2003, chính sách thống trị coi sự đối kháng giữa hai trật tự xã hội, chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản, là nguồn gốc cơ bản của động lực thế giới. Mục tiêu trọng tâm chính sách thời kỳ này là chống lại ảnh hưởng của phương Tây và duy trì sự cầm quyền của Đảng. Việt Nam vẫn đa dạng hoá quan hệ đối tác, nhưng phụ thuộc vào chủ nghĩa chống phương Tây, tìm kiếm liên minh chiến lược với Trung Quốc và liên kết với các chế độ cộng sản. Tuy nhiên, cách tiếp cận này tỏ ra không hiệu quả trong việc giải quyết các mối lo ngại về an ninh của Việt Nam và thúc đẩy phát triển kinh tế. 

Bởi vậy từ năm 2003 đến năm 2014 nổi lên trường phái thực dụng là sự hôn phối giữa trường phái chống chủ nghĩa phương Tây và trường phái hiện đại hoá, đánh dấu bằng việc loại bỏ yếu tố “ý thức hệ” như một tiêu chí then chốt để xác định bạn và thù trong Nghị quyết Số 8 Đại hội Đảng. Trường phái thực dụng này cũng nhấn mạnh hội nhập quốc tế, nhưng theo một nội hàm khác với trường phái hiện đại hoá. Dòng chính sách mang tính thực dụng này, với mục đích nhằm trục lợi, linh hoạt trong mối quan hệ giữa đất nước và Đảng Cộng sản, giữa hiện đại hoá đất nước hay duy trì sự cầm quyền của Đảng Cộng sản. 

Kể từ năm 2014, chủ nghĩa bành trướng hung hãn của Trung Quốc, được đánh dấu bởi chiến dịch lắp đặt giàn khoan dầu HYSY-981 trong vùng đặc quyền kinh tế Việt Nam, đã tạo cú hích cho sự trỗi dậy trở lại của trường phái hiện đại hoá, thúc đẩy Việt Nam thay đổi lập trường đối với Trung Quốc và tìm kiếm mối quan hệ chặt chẽ hơn với Hoa Kỳ và các cường quốc khác. Chính sách thời kỳ này chấp nhận trật tự quốc tế do phương Tây lãnh đạo và nhằm mục đích duy trì sự cầm quyền của Đảng Cộng sản trong khi thích ứng với những mối quan hệ đang thay đổi với Trung Quốc và Hoa Kỳ.

Bốn bước ngoặt được xem xét trong chương này là cầu nối giữa giai đoạn cuối của cuộc cạnh tranh bá quyền Xô-Mỹ và giai đoạn đầu của cuộc cạnh tranh siêu cường Trung-Mỹ. Giai đoạn sau đang hình thành vòng xoáy địa chính trị lớn nhất trong môi trường quốc tế của Việt Nam. Việc điều hướng vòng xoáy này đòi hỏi một bản đồ mới và những kỹ năng mới khác với những kỹ năng đã được chứng minh là hữu ích trong bốn thập kỷ qua. Việt Nam đang ứng phó với những thay đổi thất thường trong quan hệ quốc tế bằng cách “hành động như cây tre”, như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đề xuất tại một hội nghị quan trọng về chính sách đối ngoại của Việt Nam vào tháng 12 năm 2021. Nhưng ngoại giao cây tre, tuy mang lại sự linh hoạt và kiên cường, không thể thay thế được yêu cầu đương đại về một bản đồ mới. Việt Nam cần một thế giới quan mới để định hướng hành động trong “tình hình mới”.

Chương sách kết luận với một đặc điểm trong chính sách đối ngoại của Việt Nam sau Chiến tranh Lạnh thường là dựa trên quan điểm của một thời đại đã qua. Việc Nga xâm lược Ucraina vào năm 2022 đã giúp Hà Nội khẳng định sự đúng đắn của cách tiếp cận “ngoại giao cây tre”, nhưng cũng báo trước một cuộc Chiến tranh Lạnh mới giữa Hoa Kỳ và phương Tây chống lại Nga và Trung Quốc, phá vỡ mạng lưới quan hệ đối tác mà Việt Nam dựa trên đó để khẳng định “ngoại giao cây tre” và chính sách “bốn không,” đẩy Việt Nam ra khỏi động lực cân bằng truyền thống. Tác giả cho rằng mặc dù Việt Nam cần phải có một thế giới quan mới, Việt Nam có thể vẫn sẽ kiên trì với thế giới quan cũ, với cách tiếp cận cân bằng cũ cho đến khi phải có một bước ngoặt tiếp theo trong chính sách đối ngoại của Việt Nam. Trong chương sách, tác giả đề xuất một bảng dự đoán các khả năng và mức độ tương ứng có thể dẫn tới bước ngoặt tiếp theo trong chính sách đối ngoại Việt Nam.

Đọc toàn văn chương sách ở đây.

Xem toàn văn bản tin ở đây

Hướng Dẫn Cách Truy Cập Bản Tin Và Các Tư Liệu Trả Phí

Nguyên tắc hoạt động của Dự án Đại Sự Ký Biển Đông.

—————

Dự án Đại Sự Ký Biển Đông đang nỗ lực duy trì tri thức mở, độc lập, phi chính trị và phi lợi nhuận. Mỗi sản phẩm của Dự án đều được thực hiện với thái độ nghiêm túc, khoa học dù trong giới hạn thời gian cá nhân của các thành viên và cộng tác viên Dự án. Hãy chung tay với chúng tôi để Dự án có thể duy trì hoạt động. Xem hướng dẫn tài trợ ở đây: https://dskbd.org/tai-tro-cho-du-an/. Báo cáo tài chính sẽ được tổng kết vào cuối năm. Chúng tôi xin trân trọng cảm ơn.

Leave a comment

This site uses Akismet to reduce spam. Learn how your comment data is processed.