Tác giả: Trần Hữu Duy Minh (*)
Luật pháp quốc tế là hệ thống các quy tắc xử sự được các quốc gia xây dựng hay chấp nhận để điều chỉnh quan hệ giữa các quốc gia. Nói cách khác, luật pháp quốc tế hình thành nên “luật chơi” chung giữa các quốc gia. Khi hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, Việt Nam ngày càng chịu ràng buộc của luật pháp quốc tế. Nhận thức của Đảng (**) về luật pháp quốc tế cũng theo đó ngày càng được nâng cao và bắt buộc phải nâng cao. Bài viết có mục tiêu làm sáng tỏ một phần nhận thức của Đảng về luật pháp quốc tế. Do giới hạn của bài viết, tác giả chỉ xem xét văn kiện của Đảng qua các kỳ đại hội và cách mà luật pháp quốc tế được (hoặc không được) đề cập đến.
Tác giả tập trung rà soát văn kiện của Đảng tại các kỳ Đại hội vì đây là những văn kiện có tầm quan trọng bậc nhất trong hệ thống các văn kiện Đảng. Theo nguyên tắc tổ chức của Đảng, Đại hội đại biểu toàn quốc là cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng.[1] Tất cả đảng viên và tổ chức trong toàn Đảng có nghĩa vụ phải phục tùng Đại hội Đảng.[2] Với vai trò quan trọng đó, các văn kiện đại hội Đảng có tầm quan trọng, thể hiện nhận thức và quan điểm của Đảng về các vấn đề quan trọng của đất nước.
Về phương pháp, tác giả tập trung rà soát nội dung các văn kiện đại hội Đảng, tìm ra các phần đề cập đến luật pháp quốc tế. Luật pháp quốc tế có thể được đề cập trực tiếp khi văn kiện nhắc đến “nghĩa vụ quốc tế”, “luật pháp quốc tế”, “quy định của pháp luật quốc tế” hoặc gián tiếp như “cam kết quốc tế.” Với phương pháp như vậy, bài viết chỉ giới hạn ở khảo sát ban đầu nhằm chỉ ra những nét chính trong nhận thức của Đảng về luật pháp quốc tế. Cần thiết phải có các nghiên cứu chuyên sâu hơn để làm rõ quá trình phát triển tư duy, nhận thức của Đảng về vấn đề này.
Từ Đại hội I đến Đại hội V
Từ Đại hội I cho đến Đại hội VII, văn kiện đại hội Đảng không đề cập đến vai trò của luật pháp quốc tế. Các văn kiện thường đề cập đến “nghĩa vụ quốc tế” hay “nhiệm vụ quốc tế” nhưng không với nghĩa là các nghĩa vụ pháp lý hay trách nhiệm pháp lý theo luật pháp quốc tế. Hai cụm từ này dùng để chỉ nghĩa vụ chính trị của Đảng đối với phong trào tiến bộ, dân chủ trên thế giới nói chung và phong trào vô sản quốc tế nói riêng. Như Chính cương của Đảng Lao động Việt Nam thông qua tại Đại hội II nhắc đến “Đấu tranh cho hòa bình thế giới là nhiệm vụ quốc tế của nhân dân Việt Nam;”[3] hay Nghị quyết và Báo cáo chính trị tại Đại hội IV khẳng định phải “làm tốt nghĩa vụ quốc tế đối với nhân dân các nước.”[4] Điều lệ Đảng thông qua tại Đại hội IV và V quy định trách nhiệm chung của Đảng phải làm tròn nghĩa vụ với phong trào cộng sản quốc tế, và nhiệm vụ riêng của từng đảng viên, góp phần làm tròn nghĩa vụ quốc tế này của Đảng.[5]
Đại hội VI năm 1986
Văn kiện Đại hội VI cũng nhắc đến “nghĩa vụ quốc tế” với nội hàm tương tự các kỳ đại hội trước. Điểm khác biệt trong văn kiện Đại hội VI và các kỳ đại hội trước là sự xuất hiện của cụm từ “cam kết quốc tế.” Cam kết quốc tế được nhắc là các cam kết về xuất nhập khẩu trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại. Nghị quyết của Đại hội VI nhấn mạnh tinh thần “thực hiện nghiêm túc các cam kết của nước ta trong quan hệ kinh tế với nước ngoài.”[6] Cụ thể hơn, Báo cáo chính trị ưu tiên “hoàn thành đầy đủ các nghĩa vụ đã cam kết với nước ngoài, thực hiện đúng các hợp đồng xuất khẩu cả về số lượng, chất lượng, thời gian giao hàng.”[7] Phương hướng, mục tiêu chủ yếu phát triển kinh tế – xã hội trong năm năm 1986 – 1990 cũng có yêu cầu tương tự để giữ vững sự tín nhiệm quốc tế và tạo điều kiện mở rộng quan hệ kinh tế với nước ngoài.[8]
Có thể thấy văn kiện trên của Đại hội VI đề cập đến luật pháp quốc tế một cách gián tiếp, và giới hạn trong việc thực hiện các nghĩa vụ đã cam kết quốc tế về xuất nhập khẩu trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại. Kể từ Đại hội VI, việc ký kết và thực hiện các cam kết quốc tế trong lĩnh vực hội nhập kinh tế quốc tế trở thành chủ đề xuyên suốt.
Đại hội VII năm 1991
Văn kiện Đại hội VII lần đầu tiên đề cập trực tiếp đến luật pháp quốc tế. Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế – xã hội đến năm 2000 yêu cầu “bảo đảm tính hệ thống của luật và các văn bản dưới luật, chú ý đến luật pháp và thông lệ quốc tế.”[9] Mặc dù mới chỉ dừng ở mức “chú ý đến luật pháp và thông lệ quốc tế”, văn kiện cho thấy yêu cầu của Đảng là phải có sự tham khảo luật pháp quốc tế khi xây dựng, ban hành và thực thi pháp luật trong nước. Luật pháp quốc tế cần được đưa vào trong quy trình lập pháp của Việt Nam.
Trong lĩnh vực đối ngoại và hội nhập kinh tế quốc tế, Chiến lược yêu cầu cần phải: “Thực hiện đầy đủ nghĩa vụ và quyền hạn thành viên của nước ta trong các tổ chức quốc tế; gia nhập các tổ chức và hiệp hội kinh tế quốc tế khác khi cần thiết và có điều kiện.”[10] Đây có thể xem là định hướng cho việc Việt Nam chuẩn bị tham gia vào các tổ chức quốc tế, nhất là các tổ chức kinh tế – thương mại quốc tế, trong giai đoạn phát triển tiếp theo.
Đại hội VIII năm 1996
Văn kiện Đại hội VIII thể hiện rõ nét hơn và cụ thể hơn vai trò của luật pháp quốc tế trong các lĩnh vực kinh tế. Phương hướng, nhiệm vụ kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội 5 năm 1996 – 2000 có hai đoạn nhắc đến vai trò của luật pháp quốc tế trong việc “nâng cao năng lực đủ sức đảm nhiệm tỉ lệ thị phần theo luật pháp và thông lệ quốc tế trong vận tải hàng không, viễn dương,” và “xây dựng cơ cấu kinh tế trong vùng hướng mạnh về xuất khẩu, kết hợp khai thác kinh tế ven biển, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa thuộc quyền tài phán quốc gia, theo quy ước Luật biển quốc tế.”[11]
Bên cạnh đó, văn kiện cũng gián tiếp đề cập đến luật pháp quốc tế thông qua yêu cầu xúc tiến gia nhập các tổ chức và cơ chế hợp tác thương mại quốc tế: “Tiếp theo việc gia nhập ASEAN và chuẩn bị cho việc tham gia Khối mậu dịch tự do (AFTA), cần xúc tiến việc tham gia Diễn đàn kinh tế châu Á – Thái Bình Dương (APEC), Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), từng bước tham gia các hoạt động của Hệ thống toàn cầu về ưu đãi thương mại với các nước đang phát triển (GSTP), áp dụng các chuẩn mực thương mại quốc tế và lựa chọn tham gia một số hiệp hội xuất khẩu quốc tế về từng mặt hàng xuất khẩu.”[12]
Đại hội IX năm 2001
Vai trò của luật pháp quốc tế được nêu rõ và nổi bật hơn hẳn trong văn kiện Đại hội IX. Luật pháp quốc tế được nhắc đến trong ba lĩnh vực. Thứ nhất là liên quan đến lĩnh vực thuế và ngân hàng, văn kiện yêu cầu phải thực hiện các cam kết quốc tế của Việt Nam về giảm thuế,[13] tiếp tục cải cách hệ thống thuế phù hợp với tình hình đất nước và các cam kết quốc tế,[14] và bảo đảm quyền kinh doanh của các ngân hàng và các tổ chức tài chính nước ngoài theo các cam kết của nước ta với quốc tế.[15]
Vai trò của luật pháp quốc tế cũng được đề cập đến trong lĩnh vực hội nhập kinh tế quốc tế. Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 2001 – 2010 đánh giá “tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế [của nước ta] trong thời gian tới được nâng lên một bước mới gắn với việc thực hiện các cam kết quốc tế”, và yêu cầu “tạo điều kiện thực hiện có hiệu quả các cam kết hội nhập quốc tế,” đồng thời “chủ động hội nhập kinh tế quốc tế theo lộ trình phù hợp với điều kiện của nước ta và bảo đảm thực hiện những cam kết trong quan hệ song phương và đa phương như AFTA, APEC, Hiệp định thương mại Việt – Mỹ, tiến tới gia nhập WTO.”[16]
Vấn đề thứ ba mà văn kiện Đại hội IX nhắc đến vai trò của luật pháp quốc tế là quyền con người. Báo cáo chính trị có đoạn như sau: “Chăm lo cho con người, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mọi người; tôn trọng và thực hiện các điều ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia.”[17] Đây là lần đầu tiên một văn kiện Đại hội Đảng nhắc đến “điều ước quốc tế.”
Đại hội X năm 2006
Trong các văn kiện của Đại hội X (2006), vai trò của luật pháp quốc tế tiếp tục chủ yếu được nhắc đến trong lĩnh vực hội nhập kinh tế quốc tế. Báo cáo về phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội 2006 -2010 đánh giá việc thực hiện các cam kết trong AFTA, Hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ, đàm phán gia nhập WTO và thực hiện các hiệp định hợp tác đa phương, song phương khác “đã góp phần tạo ra bước phát triển mới rất quan trọng về kinh tế đối ngoại, nhất là xuất khẩu.”[18] Cụ thể hơn, Báo cáo nhấn mạnh phải thực hiện có hiệu quả các cam kết về thương mại, đầu tư, dịch vụ và các lĩnh vực khác với các nước, các tổ chức quốc tế, trong AFTA, chuẩn bị tốt các điều kiện để thực hiện các cam kết sau khi nước ta gia nhập WTO, đồng thời cần phát triển thị trường hàng hóa, dịch vụ theo hướng tự do hóa thương mại và đầu tư mạnh hơn phù hợp với các cam kết song phương, đa phương của nước ta.[19]
Để tạo bước ngoặt về hội nhập kinh tế quốc tế và hoạt động kinh tế đối ngoại, Báo cáo yêu cầu “hoàn chỉnh hệ thống pháp luật bảo đảm lợi ích quốc gia và phù hợp với các quy định, thông lệ quốc tế.”[20] Trước đó, quan điểm này đã được đưa ra trong Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế – xã hội đến năm 2000 thông qua tại Đại hội VII nhưng lại không nhắc đến trong văn kiện Đại hội VIII và IX.
Báo cáo về phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội 2006 -2010 đề cập đến việc tuân thủ các cam kết quốc tế trong lĩnh vực tiếp nhận đầu tư nước ngoài: “Tạo điều kiện cho đầu tư nước ngoài tham gia nhiều hơn vào phát triển các ngành, các vùng lãnh thổ phù hợp với các cam kết quốc tế của nước ta,”[21] bao gồm các lĩnh vực dịch vụ nói chung, và lĩnh vực ngân hàng nói riêng.[22] Báo cáo yêu cầu các hỗ trợ, ưu đãi kinh tế, đầu tư phải phù hợp với các cam kết quốc tế.[23] Đồng thời, Báo cáo cũng yêu cầu “đổi mới phương thức quản lý nhà nước và cải tiến mạnh mẽ thủ tục đầu tư, thực hiện đúng theo các quy định của Luật Đầu tư và phù hợp với lộ trình thực hiện các cam kết quốc tế của nước ta.”[24]
Cam kết quốc tế cũng được xem là một trong các yếu tố cần xem xét đến khi xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội năm năm và hàng năm ở cả cấp trung ương và địa phương.[25]
So với văn kiện Đại hội IX, văn kiện Đại hội X đề cập đến vai trò của luật pháp quốc tế chủ yếu trong việc bảo đảm thực hiện các cam kết quốc tế trong lĩnh vực hội nhập kinh tế quốc tế, thu hút đầu tư nước ngoài, và xây dựng pháp luật phục vụ hội nhập kinh tế quốc tế. Vấn đề thực hiện các điều ước quốc tế về quyền con người không còn được trực tiếp nhắc đến.[26]
Đại hội XI năm 2011
Vai trò của luật pháp quốc tế được đề cập đậm nét trong văn kiện Đại hội XI trong nhiều lĩnh vực. Thứ nhất, trong lĩnh vực kinh tế, các văn kiện đề cập đến việc cần nâng cao trình độ hiểu biết của doanh nghiệp về pháp luật quốc tế, từng bước mở cửa thị trường dịch vụ ngân hàng theo các cam kết quốc tế, và “tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách để vận hành có hiệu quả nền kinh tế và thực hiện tốt các cam kết quốc tế, bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc.”[27] Một vấn đề kinh tế mới được đề cập là việc thực hiện đầy đủ các cam kết quốc tế về quyền sở hữu trí tuệ, quyền tác giả các sản phẩm văn hoá.[28]
Lĩnh vực thứ hai mà luật pháp quốc tế cũng được nhắc đến là quyền con người – một vấn đề mà văn kiện Đại hội IX có nhắc đến nhưng không được đề cập trực tiếp trong văn kiện Đại hội X: “Quan tâm hơn nữa việc chăm lo hạnh phúc và sự phát triển tự do, toàn diện của con người, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của con người, tôn trọng và thực hiện các điều ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam ký kết.”[29]
Vai trò của luật pháp quốc tế cũng được nhấn mạnh trong lĩnh vực đối ngoại: “Tham gia các cơ chế hợp tác chính trị, an ninh song phương và đa phương vì lợi ích quốc gia trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, Hiến chương Liên Hợp Quốc,”[30] và “Hợp tác bình đẳng, cùng có lợi với tất cả các nước trên cơ sở những nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên Hợp Quốc và luật pháp quốc tế.”[31]
Đặc biệt, các văn kiện lần đầu tiên nhắc đến việc giải quyết các vấn đề biên giới, lãnh thổ và biển giữa Việt Nam và các nước với vai trò nền tảng của luật pháp quốc tế: “Thúc đẩy giải quyết các vấn đề còn tồn tại về biên giới, lãnh thổ, ranh giới biển và thềm lục địa với các nước liên quan trên cơ sở những nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế và nguyên tắc ứng xử của khu vực.”[32]
So với các kỳ đại hội trước, vai trò của luật pháp quốc tế có sự phát triển trong văn kiện Đại hội XI. Thứ nhất, đây lại là lần đầu tiên, văn kiện đại hội Đảng đề cập đến “các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế”, và “Hiến chương Liên Hợp Quốc”, và là lần thứ hai, “luật pháp quốc tế” được nhắc đến trực tiếp trong văn kiện đại hội Đảng. Lần trước là trong văn kiện Đại hội VII. Thứ hai, đây là lần đầu tiên văn kiện nhắc đến luật pháp quốc tế với tư cách cơ sở để giải quyết tranh chấp biên giới, lãnh thổ và biển giữa Việt Nam với các nước. Văn kiện Đại hội XI thể hiện nhận thức sâu sắc hơn của Đảng về vai trò quan trọng của luật pháp quốc tế.
Đại hội XII năm 2016
Trong văn kiện Đại hội XII, luật pháp quốc tế được đề cập nhiều trong ba lĩnh vực. Thứ nhất và đậm nét nhất là trong lĩnh vực kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế. Báo cáo chính trị yêu cầu: “Nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế, thực hiện đầy đủ các cam kết quốc tế, xây dựng và triển khai chiến lược tham gia các khu vực mậu dịch tự do với các đối tác kinh tế, thương mại quan trọng, ký kết và thực hiện hiệu quả các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới trong một kế hoạch tổng thể với lộ trình hợp lý, phù hợp với lợi ích của đất nước,”[33] và “Tiếp tục nghiên cứu, đàm phán, ký kết, chuẩn bị kỹ các điều kiện thực hiện các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, tham gia các điều ước quốc tế trong các lĩnh vực kinh tế, thương mại, đầu tư.”[34] Vấn đề mở cửa thị trường tín dụng và dịch vụ ngân hàng phù hợp với các cam kết quốc tế, tận dụng tốt các cam kết quốc tế để mở rộng và đa dạng hóa thị trường ngoài nước cũng được nhắc đến.[35]
Lĩnh vực thứ hai mà vai trò của luật pháp quốc tế được đề cập đến là lĩnh vực đối ngoại. Báo cáo chính trị có nội dung quan trọng như sau: “Bảo đảm lợi ích tối cao của quốc gia – dân tộc, trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng và cùng có lợi.”[36] Quan điểm này hàm ý rằng các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế là khuôn khổ cho việc bảo đảm lợi ích quốc gia – dân tộc.
Về việc giải quyết tranh chấp biên giới, lãnh thổ và biển tiếp tục được nhắc lại: “Kiên trì thúc đẩy giải quyết các tranh chấp trên biển bằng biện pháp hòa bình trên cơ sở luật pháp quốc tế và nguyên tắc ứng xử của khu vực,”[37] “Giải quyết những bất đồng, tranh chấp bằng giải pháp hòa bình trên cơ sở tôn trọng luật pháp quốc tế,”[38] và “Tiếp tục hoàn thành việc phân định biên giới trên bộ, thúc đẩy giải quyết các vấn đề trên biển trên cơ sở những nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật Biển 1982 và quy tắc ứng xử của khu vực.”[39]
Lĩnh vực thứ tư mà luật pháp quốc tế được nhắc đến trong văn kiện Đại hội XII là lĩnh vực quyền con người: “Coi trọng chăm lo hạnh phúc và sự phát triển toàn diện của con người, bảo vệ và bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của con người, tôn trọng và thực hiện các điều ước quốc tế về quyền con người mà nước ta ký kết.”[40] Đây là lần thứ ba, sau Đại hội IX và XI, văn kiện đại hội Đảng đề cập đến vấn đề thực thiện các điều ước quốc tế về quyền con người.
Ngoài ra, Báo cáo chính trị cũng đưa một vấn đề mới – tương trợ tự pháp – “hoàn thiện pháp luật về tương trợ tư pháp phù hợp với pháp luật quốc tế.”[41]
Đại hội XIII năm 2021
Luật pháp quốc tế được đề cập nhiều trong các văn kiện của Đại hội XIII liên quan đến nhiều lĩnh vực khác nhau. Luật pháp quốc tế tiếp tục được đề cập nhiều nhất trong lĩnh vực kinh tế. Quan điểm chỉ đạo chung là cần “tthực hiện nghiêm các cam kết quốc tế và các hiệp định thương mại đã ký kết,”[42] “hoàn thiện hệ thống pháp luật phù hợp với những điều ước quốc tế và cam kết quốc tế mà Việt Nam đã ký kết,”[43] “nâng cao năng lực hội nhập, thực hiện hiệu quả các cam kết quốc tế, các hiệp định thương mại tự do; lồng ghép với các kế hoạch, chương trình phát triển kinh tế – xã hội.”[44] Vấn đề bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ phù hợp với các cam kết quốc tế được nhắc lại. [45]
Điểm đặc biệt là lần đầu tiên văn kiện Đại hội Đảng nhắc đến vấn đề xây dựng và hoàn thiện hệ thống phòng vệ thương mại để bảo vệ nền kinh tế, doanh nghiệp, thị trường trong nước, bảo vệ sản xuất và người tiêu dùng không trái với các cam kết quốc tế.[46] Đây có thể là bước chuyển quan trọng trong nhận thức từ việc tuân thủ luật pháp quốc tế sang chủ động sử dụng luật pháp quốc tế để bảo vệ lợi ích kinh tế của mình. Đồng thời, lần đầu tiên văn kiện đại hội Đảng nhắc đến yêu cầu phải đào tạo chuyên gia pháp lý trong lĩnh vực luật kinh tế quốc tế: “Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng cán bộ am hiểu sâu về luật pháp quốc tế, thương mại, đầu tư quốc tế, có khả năng làm việc trong môi trường quốc tế, trước hết là cán bộ trực tiếp làm công tác hội nhập kinh tế quốc tế, giải quyết tranh chấp quốc tế.”[47] Đồng thời, “nghiên cứu giải pháp gia tăng sự hiện diện của chuyên gia pháp luật Việt Nam trong các thiết chế luật pháp quốc tế.”[48]
Lĩnh vực thứ hai mà luật pháp quốc tế được đề cập đến là lĩnh vực đối ngoại. Nghị quyết Đại hội Đảng có đoạn quan trọng như sau: “Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia – dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên Hợp Quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi.”[49]
Đây là lần đầu tiên luật pháp quốc tế được đề cập đến trong một nghị quyết của đại hội Đảng. Trước đó, tại Đại hội XI, quan điểm tương tự chỉ được nêu trong Báo cáo chính trị mà không có trong Nghị quyết Đại hội XI. Điều đó cho thấy Đại hội XIII xem trọng hơn vai trò của luật pháp quốc tế, xác định luật pháp quốc tế là một hệ quy chiếu quan trọng, khung tham chiếu căn bản trong hoạch định chính sách đối ngoại của Việt Nam nói chung và triển khai công tác đối ngoại nói riêng. Ngoài ra, quan điểm trên hàm ý rằng chính sách đối ngoại của Việt Nam sẽ theo đuổi việc mang lại lợi ích cao nhất, nhiều nhất cho quốc gia – dân tộc trong khuôn khổ luật pháp quốc tế.
Cũng trong lĩnh vực đối ngoại, lần đầu tiên văn kiện Đại hội Đảng có nhận định chung về luật pháp quốc tế: “Luật pháp quốc tế và các thể chế đa phương toàn cầu đang đứng trước những thách thức lớn.”[50] Nhận định này cho thấy Đảng ta đã nhận thức được đây là thách thức lớn trong tình hình thế giới hiện nay, sẽ có tác động lớn tới môi trường an ninh và phát triển của Việt Nam những năm tới.
Lĩnh vực thứ ba mà văn kiện Đại hội XIII nhắc đến luật pháp quốc tế là giải quyết tranh chấp biển đảo: “giải quyết các tranh chấp bằng các biện pháp hoà bình phù hợp với luật pháp quốc tế,”[51] “tiếp tục thúc đẩy giải quyết các vấn đề trên biển, an ninh, an toàn hàng hải, hàng không trên cơ sở luật pháp quốc tế, nhất là Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật Biển năm 1982,”[52] và “theo dõi sát diễn biến tình hình Biển Đông, kiên trì, kiên quyết bảo vệ các lợi ích chính đáng của Việt Nam phù hợp với luật pháp quốc tế.”[53]
Lĩnh vực thứ tư mà luật pháp quốc tế được đề cập đến là lĩnh vực hợp tác quốc tế về pháp luật: “Tiếp tục đổi mới hợp tác quốc tế về pháp luật theo hướng chủ động, tích cực, tận dụng hiệu quả các quy tắc, luật lệ quốc tế và tham gia các hoạt động của cộng đồng khu vực và quốc tế.”[54]
Lĩnh vực thứ năm mà văn kiện Đại hội XIII nhắc đến luật pháp quốc tế là lĩnh vực bảo vệ môi trường: “Thực hiện các cam kết quốc tế, góp phần cùng cộng đồng quốc tế ứng phó với biến đổi khí hậu, bảo vệ hệ sinh thái toàn cầu.”[55]
So sánh với các kỳ đại hội trước, văn kiện Đại hội XIII thể hiện đậm nét nhất vai trò của luật pháp quốc tế, với việc lần đầu tiên luật pháp quốc tế được ghi nhận trong một nghị quyết đại hội Đảng. Tuy nhiên, một vấn đề không còn được nhắc đến trong các văn kiện kỳ đại hội lần này là việc thực hiện các điều ước quốc tế về quyền con người.[56]
Một số nhận xét
Rà soát văn kiện của Đảng qua các kỳ đại hội cho thấy Đảng ta ngày càng nhận thức rõ hơn vai trò quan trọng của luật pháp quốc tế, từ việc không được đề cập đến trong văn kiện của kỳ đại hội đầu tiên đến việc được ghi nhận trực tiếp trong Nghị quyết Đại hội XIII. Văn kiện các kỳ đại hội từ I đến V cho thấy vấn đề luật pháp quốc tế chưa được quan tâm. Từ Đại hội VI, luật pháp quốc tế bắt đầu dần được đề cập đến, và ngày càng được đề cập nhiều hơn trong văn kiện của Đảng các kỳ đại hội sau đó. Điều này cho thấy, cùng với chủ trương Đổi mới, và dần mở cửa để hội nhập quốc tế, Đảng ta ngày càng nhận thức rõ tầm quan trọng và vai trò của luật pháp quốc tế, theo đó, càng hội nhập sâu rộng vào đời sống quốc tế, chúng ta càng phải nắm chắc luật pháp quốc tế.
Nhìn từ góc độ thuật ngữ, các thuật ngữ liên quan đến luật pháp quốc tế được sử dụng ngày càng cụ thể và chính xác. Từ văn kiện Đại hội VI đề cập một cách chung chung đến “cam kết quốc tế”, đến “luật pháp và thông lệ quốc tế” (Đại hội VII), “điều ước quốc tế” (Đại hội IX), và “các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế” và “Hiến chương Liên Hợp Quốc” (Đại hội XI, XII và XIII).
Nhận thức của Đảng về vai trò của luật pháp quốc tế bắt đầu từ lĩnh vực kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế. Qua các kỳ đại hội, và cho đến nay, đây vẫn là lĩnh vực mà luật pháp quốc tế được đề cập nhiều nhất và xuyên suốt trong các văn kiện. Văn kiện của các kỳ đại hội đầu tiên có đề cập đến luật pháp quốc tế, các lĩnh vực mà luật pháp quốc tế được đề cập đến như thuế, ngân hàng, xuất nhập khẩu, thương mại, và đầu tư quốc tế. Điều này cho thấy, nhận thức của Đảng về luật pháp quốc tế xuất phát từ nhu cầu khách quan của đất nước về phát triển kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế, và cũng cho thấy trong các ngành luật quốc tế, ngành luật kinh tế quốc tế là ngành luật cần tập trung đào tạo và nghiên cứu.
Tiếp đó, luật pháp quốc tế được đề cập đến trong lĩnh vực khác như xây dựng pháp luật, tương trợ tư pháp, quyền con người và đối ngoại. Trong lĩnh vực đối ngoại từ Đại hội XI đến Đại hội XIII, việc triển khai chính sách và các hoạt động đối ngoại phải dựa trên cơ sở tôn trọng luật pháp quốc tế. Trong ba kỳ đại hội XI, XII, XIII này, việc giải quyết tranh chấp biển đảo cũng được đề cập đến với vai trò quan trọng của luật pháp quốc tế.
Đại hội XIII có thể xem là kỳ đại hội mà vai trò của luật pháp quốc tế được thể hiện rõ nét nhất trong văn kiện của Đảng: Thứ nhất, lần đầu tiên, luật pháp quốc tế được đề cập trực tiếp đến trong Nghị quyết Đại hội Đảng. Với vai trò là một trong những văn kiện có giá trị cao nhất trong hệ thống văn kiện Đảng, việc được đề cập trong Nghị quyết đã cho thấy Đảng ta công nhận vai trò quan trọng của luật pháp quốc tế. Hơn nữa, luật pháp quốc tế được đề cập đến trong lĩnh vực đối ngoại nói chung chứ không bó hẹp trong một vấn đề hẹp: “Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia – dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên Hợp Quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi.” Luật pháp quốc tế trở thành khung quy chiếu bắt buộc trong việc hoạch định và triển khai chính sách đối ngoại của Việt Nam. Thứ hai, nhận thức của Đảng về luật pháp quốc tế có sự thay đổi về chất, từ việc nhấn mạnh đến thực thi và tuân thủ chuyển sang chủ động vận dụng luật pháp quốc tế để bảo vệ quyền và lợi ích của Việt Nam. Cụ thể, văn kiện Đại hội XIII nhắc đến vấn đề phòng vệ thương mại và bảo vệ người tiêu dùng phù hợp luật pháp quốc tế. Thứ ba, với sự thay đổi về nhận thức, Đảng bắt đầu quan tâm hơn đến công tác đào tạo cán bộ có chuyên môn sâu về luật pháp quốc tế, có đủ năng lực làm việc trong môi trường quốc tế. Đây là những điểm mới cần nghiên cứu thêm để có các biện pháp thực thi hiểu quả trong tương lai.
(*) Trần Hữu Duy Minh, “Luật pháp quốc tế trong các văn kiện Đảng Cộng sản Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu Quốc tế, số 3 (126), tháng 09/2021, tr. 221-242. Nguồn bản trực tuyến: https://iuscogens-vie.org/2022/01/23/227-luat-phap-quoc-te-trong-van-kien-cac-ky-dai-hoi-dang/
(**) Vì ở Việt Nam chỉ có duy nhất một đảng chính trị là Đảng Cộng sản Việt Nam, từ “Đảng” viết hoa ở trong nước được mặc định hiểu là “Đảng Cộng sản Việt Nam” (Chú thích của BTV Dự án Đại Sự Ký Biển Đông).
[1] “Điều lệ Đảng (do Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng thông qua ngày 19/1/2011),” Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, ngày 20/9/2018, https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/van-kien-tu-lieu-ve-dang/dieu-le-dang/dieu-le-dang-do-dai-hoi-dai-bieu-toan-quoc-lan-thu-xi-cua-dang-thong-qua-3431,Điều 9(2).
[2] Như trên, Điều 9(4).
[3] “Chính cương Đảng Lao động Việt Nam,” Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, ngày 19/4/2018, https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/ban-chap-hanh-trung-uong-dang/dai-hoi-dang/lan-thu-ii/chinh-cuong-dang-lao-dong-viet-nam-1448.
[4] “Nghị quyết của Đại hội IV của Đảng,” Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, ngày 24/9/2015, https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/ban-chap-hanh-trung-uong-dang/dai-hoi-dang/lan-thu-iv/nghi-quyet-cua-dai-hoi-dai-bieu-toan-quoc-lan-thu-iv-cua-dang-1522; “Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương khóa III tại Đại hội IV của Đảng,” Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, ngày 24/9/2015, https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/ban-chap-hanh-trung-uong-dang/dai-hoi-dang/lan-thu-iv/bao-cao-chinh-tri-cua-ban-chap-hanh-trung-uong-khoa-iii-tai-dai-hoi-dai-bieu-toan-quoc-lan-thu-iv-cua-dang-1513.
[5] “Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam do Đại hội IV thông qua,” Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, ngày 24/9/2015, https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/ban-chap-hanh-trung-uong-dang/dai-hoi-dang/lan-thu-iv/dieu-le-dang-cong-san-viet-nam-do-dai-hoi-dai-bieu-toan-quoc-lan-thu-iv-thong-qua-1515; “Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam do Đại hội IV thông qua,” Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, ngày 24/9/2015, https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/ban-chap-hanh-trung-uong-dang/dai-hoi-dang/lan-thu-v/dieu-le-dang-cong-san-viet-nam-duoc-thong-qua-tai-dai-hoi-dai-bieu-toan-quoc-lan-thu-v-cua-dang-1505.
[10] Như trên, tr. 183.
[12] Như trên, 463-464.
[15] “Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 2001 – 2010,” 268.
[16] Như trên, 236-237, 268, 243. Quan điểm tương tự cũng được nhắc đến trong “Phương hướng, nhiệm vụ kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội 5 năm 2001 – 2005.”
[17] “Báo cáo chính trị.” chú thích 14, tr. 218.
[18] “Báo cáo về phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội 2006 – 2010”trong Văn kiện Đảng toàn tập – 2006, Tập 65 (Hà Nội: Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, 2016): 238-239.
[19] Như trên, tr. 278, 305. Quan điểm này cũng được nhắc đến trong “Báo cáo về các văn kiện Đại hội X của Đảng.” trong Văn kiện Đảng toàn tập – 2006, Tập 65, sđd., tr. 156, 186.
[20] Như trên, tr. 278.
[21] Như trên, tr. 303.
[22] Như trên, tr. 305, 312.
[23] Như trên, tr. 298.
[24] Như trên, tr. 303.
[25] Như trên, tr. 313-314.
[26] Tại Đại hội X, Báo cáo chính trị nhắc đến việc Nhà nước bảo đảm thực hiện quyền con người, tham gia vào cuộc đấu tranh chung về nhân quyền trên thế giới, xây dựng hệ thống tư pháp bảo vệ quyền con người, nhưng đồng thời kiên quyết chống các âm mưu lợi dụng các vấn đề “dân chủ”,“nhân quyền”, “dân tộc”, “tôn giáo” để can thiệp vào công việc nội bộ, xâm phạm độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, an ninh và ổn định chính trị, Văn kiện Đảng toàn tập – 2006, Tập 65, sđd., tr. 180, 210, 221, và “Báo cáo về Công tác xây dựng Đảng.”, in trong Văn kiện Đảng toàn tập – 2006, Tập 65, sđd., tr. 345.
[27] “Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng,” Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, ngày 24/9/2015, https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/ban-chap-hanh-trung-uong-dang/dai-hoi-dang/lan-thu-xi/bao-cao-chinh-tri-cua-ban-chap-hanh-trung-uong-dang-khoa-x-tai-dai-hoi-dai-bieu-toan-quoc-lan-thu-xi-cua-dang-1526.
[28] Như trên.
[29] Như trên.
[30] Như trên; “Báo cáo của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa X về các văn kiện Đại hội XI của Đảng,” Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, ngày 24/9/2015, https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/ban-chap-hanh-trung-uong-dang/dai-hoi-dang/lan-thu-xi/bao-cao-cua-ban-chap-hanh-trung-uong-dang-khoa-x-ve-cac-van-kien-dai-hoi-xi-cua-dang-1529.
[31] “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011),” Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, ngày 24/9/2015, https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/ban-chap-hanh-trung-uong-dang/dai-hoi-dang/lan-thu-xi/cuong-linh-xay-dung-dat-nuoc-trong-thoi-ky-qua-do-len-chu-nghia-xa-hoi-bo-sung-phat-trien-nam-2011-1528.
[32] “Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng,” chú thích 27; “Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 2011 – 2020,” Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, ngày 24/9/2015, https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/ban-chap-hanh-trung-uong-dang/dai-hoi-dang/lan-thu-xi/chien-luoc-phat-trien-kinh-te-xa-hoi-2011-2020-1527.
[33] “Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XI tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng,” Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, ngày 31/3/2016, https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/ban-chap-hanh-trung-uong-dang/dai-hoi-dang/lan-thu-xii/bao-cao-chinh-tri-cua-ban-chap-hanh-trung-uong-dang-khoa-xi-tai-dai-hoi-dai-bieu-toan-quoc-lan-thu-xii-cua-dang-1600. Quan điểm tương tự cũng được nêu trong “Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về các văn kiện Đại hội XII của Đảng,” Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, ngày 17/3/2016, https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/ban-chap-hanh-trung-uong-dang/dai-hoi-dang/lan-thu-xii/bao-cao-cua-ban-chap-hanh-trung-uong-dang-khoa-xi-ve-cac-van-kien-dai-hoi-xii-cua-dang-1601, “Báo cáo đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội 5 năm 2011 – 2015 và phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội 5 năm 2016 – 2020,” Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, ngày 31/3/2016, https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/ban-chap-hanh-trung-uong-dang/dai-hoi-dang/lan-thu-xii/bao-cao-danh-gia-ket-qua-thuc-hien-nhiem-vu-phat-trien-kinh-te-xa-hoi-5-nam-2011-2015-va-phuong-huong-1599.
[34] “Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XI tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng.”.
[35] “Báo cáo đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội 5 năm 2011-2015 và phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội 5 năm 2016 – 2020.”
[36] Như trên. Đoạn tương tự cũng được nhắc lại trong “Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về các văn kiện Đại hội XII của Đảng.”
[37] “Báo cáo đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội 5 năm 2011 – 2015 và phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội 5 năm 2016 – 2020.”
[38] “Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XI tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng.”
[39] Như trên.
[40] Như trên.
[41] Như trên.
[42] “Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 10 năm 2021 – 2030,” Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, ngày 22/3/2021, https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/ban-chap-hanh-trung-uong-dang/dai-hoi-dang/lan-thu-xiii/chien-luoc-phat-trien-kinh-te-xa-hoi-10-nam-2021-2030-3671.
[43] “Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng,” Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, ngày 23/3/2021, https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/ban-chap-hanh-trung-uong-dang/dai-hoi-dang/lan-thu-xiii/bao-cao-chinh-tri-cua-ban-chap-hanh-trung-uong-dang-khoa-xii-tai-dai-hoi-dai-bieu-toan-quoc-lan-thu-xiii-cua-3669.
[44] “Báo cáo đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội 5 năm 2016 – 2020 và phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội 5 năm 2021 – 2025,” Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, ngày 23/3/2021, https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/ban-chap-hanh-trung-uong-dang/dai-hoi-dang/lan-thu-xiii/bao-cao-danh-gia-ket-qua-thuc-hien-nhiem-vu-phat-trien-kinh-te-xa-hoi-5-nam-2016-2020-va-phuong-huong-3672.
[45] Như trên.
[46] “Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng.”; “Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 10 năm 2021 – 2030.”; “Báo cáo đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội 5 năm 2016 – 2020 và phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội 5 năm 2021 – 2025.”
[47] “Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng.”
[48] “Báo cáo đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội 5 năm 2016 – 2020 và phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội 5 năm 2021 – 2025.”
[49] “Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng,” Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, ngày 26/2/2021, https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/ban-chap-hanh-trung-uong-dang/dai-hoi-dang/lan-thu-xiii/nghi-quyet-dai-hoi-dai-bieu-toan-quoc-lan-thu-xiii-cua-dang-3663. Quan điểm tương tự cũng có trong “Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng.” chú thích 43.
[50] “Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng.”
[51] Như trên; “Báo cáo đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội 5 năm 2016 – 2020 và phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội 5 năm 2021 – 2025.”
[52] Như trên.
[53] “Báo cáo đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội 5 năm 2016 – 2020 và phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội 5 năm 2021 – 2025.”
[54] Như trên.
[55] “Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng.”
[56] Báo cáo chính trị chỉ đề cập chung đến việc bảo việc tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người. Trước đó, vấn đề này được nhắc đến trong văn kiện của Đại hội IX, XI và XII.
———-
Dự án Đại Sự Ký Biển Đông đang nỗ lực duy trì tri thức mở, độc lập và phi chính trị. Mỗi sản phẩm của Dự án đều được thực hiện với thái độ nghiêm túc, khoa học dù trong giới hạn thời gian cá nhân của các thành viên và cộng tác viên Dự án. Nếu độc giả thấy sản phẩm của Dự án Đại Sự Ký Biển Đông hữu ích, hãy chung tay với Dự án để Dự án có thể duy trì hoạt động. Xem hướng dẫn tài trợ ở đây: https://dskbd.org/tai-tro-cho-du-an/. Báo cáo tài chính sẽ được tổng kết vào cuối năm. Chúng tôi xin trân trọng cảm ơn.