Đánh giá của Stratfor ngày 08 tháng 4 năm 2025 | Biên dịch: James Nguyễn
Các mức thuế mới của Hoa Kỳ đối với Việt Nam đặt ra mối đe dọa nghiêm trọng cho nền kinh tế dựa trên xuất khẩu của quốc gia Đông Nam Á này. Những rủi ro đáng kể mà chúng tạo ra có thể buộc Việt Nam phải chuyển dịch chiến lược về phía Trung Quốc. Vào ngày 2 tháng 4, Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump đã công bố mức thuế toàn diện 46% đối với tất cả hàng nhập khẩu Việt Nam vào Hoa Kỳ theo Chương trình Thuế quan Đối ứng mới của Nhà Trắng. Quyết định có hiệu lực vào ngày 9 tháng 4. Việt Nam là một trong những quốc gia chịu ảnh hưởng nặng nề nhất trong thông báo của Trump. Động thái này đã kích hoạt phản ứng nhanh chóng, cấp cao ở Hà Nội. Vào ngày 4 tháng 4, Tổng Bí thư Tô Lâm, lãnh đạo tối cao trên thực tế của VN, đã có cuộc điện đàm trực tiếp với Tổng thống Trump, trong đó ông Tô Lâm đã đề nghị xoá bỏ tất cả các mức thuế quan của Việt Nam đối với hàng nhập khẩu từ Hoa Kỳ, đồng thời kêu gọi Tổng thống Trump cũng áp dụng thuế quan tương ứng như vậy. Việt Nam cũng đã phải nhờ đến sự can thiệp từ hậu trường với các bên liên quan của Hoa Kỳ và các bên trung gian thứ ba quan trọng, bao gồm Nhật Bản, Hàn Quốc và các hội nhóm ngành nghề Hoa Kỳ như Phòng Thương mại Hoa Kỳ tại Việt Nam.
– Sau thông báo về thuế quan, chỉ số VN-Index đã giảm hơn 8% trong hai phiên giao dịch, và sự hoảng loạn lan rộng qua các lĩnh vực như điện tử, may mặc và đồ nội thất, những ngành mà Hoa Kỳ chiếm hơn 30% tổng khối lượng xuất khẩu của Việt Nam.
– Bộ Công Thương Việt Nam đã giao nhiệm vụ cho chính quyền các tỉnh triệu tập các nhà sản xuất bị ảnh hưởng để đánh giá tác động ngắn hạn của thuế quan mới của Hoa Kỳ và xác định các phương án đa dạng hóa xuất khẩu.
– Các doanh nghiệp Việt Nam sản xuất hàng hóa cho các công ty Hoa Kỳ theo hợp đồng được báo cáo là đã bắt đầu xem xét các kế hoạch dự phòng để chuyển hướng hàng tồn kho hoặc phân loại lại nguồn gốc qua các nước thứ ba.
– Vào ngày 7 tháng 4, cố vấn thương mại Nhà Trắng Peter Navarro đã bác bỏ đề nghị của Việt Nam về việc loại bỏ thuế quan đối với hàng nhập khẩu của Hoa Kỳ, nói rằng việc giải quyết cái gọi là “gian lận phi thuế quan” của Hà Nội quan trọng hơn. Ông viện dẫn các hành vi như hàng hóa Trung Quốc được chuyển hướng qua Việt Nam, trộm cắp sở hữu trí tuệ và thuế giá trị gia tăng của Việt Nam là các rào cản thương mại không công bằng. Navarro nhấn mạnh rằng việc giảm thuế đơn thuần là không đủ nếu không có các cải cách cơ cấu đáng kể để khắc phục những vấn đề này.
Đề nghị thương mại của Hà Nội đối với Washington phản ánh mối đe dọa nghiêm trọng mà chế độ thuế quan mới đặt ra cho mô hình tăng trưởng kinh tế của Việt Nam. Việt Nam đã dự kiến mức độ áp lực nhất định từ Hoa Kỳ sau khi Trump trở lại Nhà Trắng vào tháng Giêng, do sự mất cân bằng thương mại lớn và ngày càng tăng giữa hai nước (thặng dư thương mại 124 tỷ đô la cho Việt Nam vào năm 2024) và vấn đề nghiêm trọng là hàng hóa Trung Quốc sử dụng Việt Nam để né tránh thuế quan của Hoa Kỳ áp lên Trung Quốc. Để giảm thiểu rủi ro này, Việt Nam đã tìm cách giải quyết việc mất cân bằng thương mại với Hoa Kỳ trong những tháng gần đây. Ví dụ, vào tháng 3, Việt Nam đã giảm (nhưng không loại bỏ hoàn toàn) thuế quan đối với hàng xuất khẩu của Hoa Kỳ như ngô, đậu nành, thịt gà, quả hồ trăn, hạnh nhân, táo, anh đào, nho khô, ethanol, khí tự nhiên hóa lỏng (LNG), ô tô và các sản phẩm gỗ. Vào tháng 2, Hà Nội cũng cam kết nhập khẩu thêm LNG và nông sản của Hoa Kỳ, và đang lên kế hoạch mua máy bay thương mại Boeing trị giá hàng trăm triệu đô la. Ngoài ra, vào tháng 3, Việt Nam đã cấp giấy phép hoạt động cho nhà cung cấp internet vệ tinh Starlink của SpaceX trên cơ sở thử nghiệm (đây là một nhượng bộ lớn trong bối cảnh các quy định viễn thông chặt chẽ ở Việt Nam). Nhưng bất chấp những nỗ lực này, chính quyền Trump đã áp đặt mức thuế cao 46% đối với Việt Nam vào ngày 2 tháng 4 – một mức thuế vượt xa dự kiến trong nội bộ Hà Nội. Nếu mức thuế này vẫn được giữ nguyên, nó sẽ nhanh chóng làm mất ổn định nền kinh tế phụ thuộc vào xuất khẩu của Việt Nam, gây rủi ro suy giảm hoạt động của nhiều ngành nghề, cũng như giảm tăng trưởng GDP và dòng vốn chảy ra. Hoa Kỳ chiếm khoảng 29% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam và hơn 40% trong các lĩnh vực có tỷ trọng cao như đồ nội thất, dệt may, điện tử và giày dép. Những ngành này hoạt động với lợi nhuận thấp và phụ thuộc nhiều vào nhu cầu tiêu dùng của Hoa Kỳ, đặc biệt là sau năm 2020, khi chuỗi cung ứng được tái chuyển hướng khỏi Trung Quốc. Việc áp đặt mức thuế đồng nhất 46% có hậu quả giống như là cấm nhập khẩu, với những dấu hiệu ban đầu đã xuất hiện khi các đơn đặt hàng từ khách hàng Hoa Kỳ đã bị trì hoãn, giảm quy mô hoặc bị hủy bỏ hoàn toàn. Nếu kéo dài, cú sốc này có thể xóa sổ 2-3% tăng trưởng GDP vào năm 2025 (theo các công ty thăm dò thị trường BMI Research và Dragon Capital), làm trật mục tiêu tăng trưởng xuất khẩu năm 2025 của Chính phủ Việt Nam là 7% và làm gián đoạn đáng kể dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài từ các công ty Hoa Kỳ và các công ty liên kết với Hoa Kỳ.
– Chiến lược kinh tế của Việt Nam từ lâu đã được neo chặt vào tăng trưởng dựa trên xuất khẩu, với Hoa Kỳ đóng vai trò là thị trường xuất khẩu lớn nhất.
– Kể từ cuộc chiến thương mại Hoa Kỳ-Trung Quốc bắt đầu trong nhiệm kỳ đầu tiên của TT Trump, Việt Nam đã thu hút một phần đáng kể sản xuất toàn cầu được chuyển hướng khỏi Trung Quốc, đặc biệt là trong lĩnh vực điện tử, dệt may và hàng tiêu dùng. Điều này đã biến Việt Nam thành một phần quan trọng trong chuỗi cung ứng của nhiều công ty Hoa Kỳ, nhưng cũng khiến nền kinh tế của đất nước ngày càng phụ thuộc vào việc xuất khẩu sang Hoa Kỳ.
– Các nhà sản xuất nước ngoài đã đầu tư vào Việt Nam – đặc biệt là từ Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan – đang gây áp lực lên chính quyền Việt Nam để làm rõ về các mức thuế mới sâu rộng của TT Trump, lo sợ sự gián đoạn kéo dài đối với các đơn đặt hàng hướng đến Hoa Kỳ.
– Mục tiêu tăng trưởng chính thức năm 2025 của Việt Nam là 8%, trong khi Ngân hàng Thế giới dự báo mức tăng trưởng là 6,8% (tạm thời vào thời điểm này).
Những nỗ lực của Việt Nam nhằm nhanh chóng giảm leo thang căng thẳng với Nhà Trắng cũng phản ánh điều hệ trọng đối với VN là duy trì thương mại với Hoa Kỳ để cân bằng với Trung Quốc. Trung Quốc cũng đã tăng cường ve vãn Việt Nam về mặt kinh tế, đề nghị nước này hội nhập sâu hơn vào chuỗi cung ứng và cơ sở hạ tầng xuyên biên giới của Trung Quốc. Mặc dù Hà Nội hoan nghênh những lời đề nghị của Bắc Kinh, nhưng họ cũng xem xét chúng một cách thận trọng trong bối cảnh lo ngại về sự thống trị kinh tế của Trung Quốc và các lo ngại về an ninh quốc gia liên quan đến tranh chấp lãnh thổ, cũng như sự mất lòng tin rộng rãi của công chúng đối với ảnh hưởng của Trung Quốc. Do đó, việc duy trì Hoa Kỳ như một hàng rào kinh tế và an ninh đối với Trung Quốc vẫn là ưu tiên hàng đầu của Việt Nam.Trong bối cảnh này, những nhượng bộ gần đây của Việt Nam đối với Hoa Kỳ, bao gồm cả đề nghị của ông Tô Lâm về việc xoá bỏ thuế quan đối với hàng nhập khẩu của Hoa Kỳ, báo hiệu mong muốn của Hà Nội là duy trì sự liên kết một phần này với Washington và ổn định quan hệ trước khi Việt Nam bị buộc phải điều chỉnh lại hướng về phía Bắc Kinh dưới áp lực (và trước khi những ảnh hưởng xấu xảy ra, như dòng vốn chảy ra hoặc phản ứng dữ dội trong nước).
Việc ông Tô Lâm gọi điện trực tiếp cho Tổng thống Trump nhấn mạnh sự khẩn cấp mà Hà Nội đặt vào cuộc khủng hoảng, vì việc Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam tham gia vào ngoại giao thương mại trực tiếp là điều rất bất thường. Việc này thường do thủ tướng xử lý. Điều này cũng đáng chú ý trong bối cảnh sắp xếp bộ máy lãnh đạo của Việt Nam thay thế các nhà lãnh đạo có đầu óc tự do kinh tế trong những năm gần đây bằng những nhân vật quan tâm đến an ninh do ông Tô Lâm đại diện.
Nhưng mặc dù Hà Nội vẫn hoài nghi về việc gia tăng phụ thuộc kinh tế vào Trung Quốc, việc mất đi khả năng tiếp cận thị trường Hoa Kỳ có thể làm nghiêng cán cân tính toán chi phí-lợi ích nội bộ theo hướng đó. Mặc dù Trung Quốc không thể thay thế thị trường Hoa Kỳ, sự liên kết kinh tế sâu sắc hơn của Việt Nam với Bắc Kinh có thể sẽ hiện thực hóa thông qua mở rộng phối hợp hải quan, thanh toán thương mại bằng nhân dân tệ và tài trợ cơ sở hạ tầng xuyên biên giới. Điều này đặc biệt đúng nếu chính phủ Việt Nam phải đối mặt với áp lực chính trị trong nước ngày càng tăng trong bối cảnh thất nghiệp ở các tỉnh công nghiệp nơi sản xuất thâm dụng lao động chiếm ưu thế. Nếu chế độ thuế quan của Trump được duy trì, nó cũng có thể làm thay đổi thêm tư thế ngoại giao của Việt Nam. Mặc dù Hà Nội đã đầu tư mạnh vào việc đa dạng hóa quan hệ chiến lược, đáng chú ý nhất là với Nhật Bản, Hàn Quốc, Liên hiệp Châu Âu và Ấn Độ, nhưng không đối tác nào trong số này có thể cung cấp quy mô hoặc năng lực kinh tế ngắn hạn để bù đắp cho việc mất khả năng tiếp cận thị trường Hoa Kỳ. Do đó, nếu thuế quan của Hoa Kỳ vẫn được giữ nguyên, Việt Nam có thể sẽ bị buộc phải gia tăng phụ thuộc vào Trung Quốc, quốc gia vẫn là tác nhân duy nhất có sự gần gũi, hội nhập hậu cần và đòn bẩy tài chính để cung cấp hỗ trợ ngắn hạn. Tuy nhiên, hai nền kinh tế không bổ sung cho nhau, vì nhiều hàng hóa Việt Nam sản xuất cạnh tranh trực tiếp với hàng xuất khẩu của Trung Quốc. Các công ty Trung Quốc hoạt động tại Việt Nam cũng làm như vậy để tái xuất sang các thị trường thứ ba thay vì phục vụ nhu cầu bên trong Trung Quốc. Điều này có nghĩa là mặc dù sự gắn kết kinh tế gia tăng với Trung Quốc có thể hỗ trợ Việt Nam về tài chính và hậu cần, nhưng sẽ không phải là sự thay thế thực sự cho thị trường Hoa Kỳ. Bất kỳ sự dịch chuyển sâu sắc hơn nào về phía Trung Quốc cũng sẽ có nguy cơ làm mất lòng các đối tác thương mại quan trọng khác, chẳng hạn như Liên hiệp Châu Âu và các đối tác của Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), những công ty có mặt tại Việt Nam để phục vụ nhu cầu toàn cầu, không phải thị trường Trung Quốc, và những đối tác này có thể xem xét lại khoản đầu tư của họ vào Việt Nam nếu quyền tiếp cận thị trường Hoa Kỳ của Việt Nam vẫn bị tổn hại. Sự liên kết thầm lặng với Trung Quốc về sự phối hợp dòng chảy chuỗi cung ứng và đầu tư có thể sẽ nổi lên như một phương án dự phòng thực tế trong ngắn hạn, đặc biệt nếu tính toán nội bộ của chính phủ ưu tiên tăng trưởng hơn cân bằng chiến lược.
– Trung Quốc và Việt Nam là các bên tham gia nhiều hiệp định thương mại tự do, bao gồm Khu vực Thương mại Tự do ASEAN-Trung Quốc và Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực. Việt Nam không phải là một bên ký kết chính thức của Sáng kiến Vành đai và Con đường của Trung Quốc, nhưng Việt Nam tham gia có chọn lọc vào các dự án cơ sở hạ tầng được khối BRI hỗ trợ, đặc biệt là trong lĩnh vực vận tải và hậu cần. Vào tháng 2, Quốc hội Việt Nam đã phê duyệt dự án đường sắt trị giá 8,3 tỷ đô la kết nối với biên giới Trung Quốc. Tuyến đường sắt này nhằm mục đích hiện đại hóa hệ thống đường sắt của Việt Nam và tạo điều kiện thuận lợi cho thương mại với Trung Quốc. Việc xây dựng dự kiến bắt đầu trong năm nay, với mục tiêu hoàn thành vào năm 2030.
– Đối với Việt Nam, Liên hiệp Châu Âu và 10 quốc gia khác trong CPTPP cùng nhau đại diện cho một thị trường lớn hơn về GDP và tiêu dùng, mặc dù điều này cũng không thay thế thực sự cho thị trường Hoa Kỳ về nhu cầu.
– Có hiệu lực từ tháng 12 năm 2018, CPTPP là một hiệp định thương mại tiêu chuẩn cao giữa 11 quốc gia, bao gồm Úc, Brunei, Canada, Chile, Nhật Bản, Malaysia, Mexico, New Zealand, Peru, Singapore và Việt Nam. Hiệp định này loại bỏ hầu hết (mặc dù không phải tất cả) thuế quan giữa các bên ký kết và đặt ra các quy tắc về lao động, môi trường và thương mại kỹ thuật số. Trong khuôn khổ hiệp định, Việt Nam đã chính thức cam kết loại bỏ gần như tất cả thuế quan và điều chỉnh phù hợp với các quy tắc tiên tiến về sở hữu trí tuệ, minh bạch quy định và thủ tục hải quan. Việt Nam cũng có một hiệp định thương mại tự do tương tự với Liên hiệp Châu Âu, có hiệu lực vào năm 2020.
Chính quyền Trump hiện tại dường như không quan tâm đến một thỏa thuận với Việt Nam để giảm thiểu hoặc đình chỉ thuế quan. Nhưng nếu điều đó xảy ra, Hoa Kỳ có thể sẽ yêu cầu Hà Nội phải vượt ra ngoài việc tự do hóa thuế quan và giải quyết các thực tế cơ cấu dẫn đến những bất bình của Hoa Kỳ về thương mại. Việc Washington bác bỏ đề nghị thuế quan bằng không của Hà Nội cho thấy rõ ràng rằng việc khắc phục thặng dư thương mại khổng lồ của Việt Nam với Hoa Kỳ vẫn là ưu tiên hàng đầu của chính quyền Trump, chứ không phải vấn đề xoá bỏ thuế quan. Điều này cũng chỉ ra rằng trong các cuộc đàm phán tiềm năng về giảm thuế, các yêu cầu của Nhà Trắng sẽ mở rộng sang lĩnh vực quy định và thực thi, cụ thể là về các rào cản phi thuế quan của Việt Nam, nạn lách luật về quy tắc xuất xứ, các thủ tục cấp phép không minh bạch, sự phân biệt đối xử về thuế giá trị gia tăng theo nhận thức của Hoa Kỳ và thao túng tiền tệ, mà một số quan chức thương mại Hoa Kỳ đã lập luận là gây bất lợi không cân xứng cho các nhà xuất khẩu Hoa Kỳ. Mặc dù Việt Nam đã thực hiện các cải cách pháp lý sâu rộng thông qua CPTPP, về lý thuyết giải quyết các lo ngại của chính quyền Trump, nhưng việc tuân thủ và thực thi vẫn không hoàn toàn đồng đều. Washington cũng lập luận rằng mặc dù Việt Nam đã loại bỏ thuế quan đối với hầu hết hàng hóa theo CPTPP và các hiệp định thương mại tự do khác, bao gồm hầu hết nông sản, Việt Nam vẫn tiếp tục bảo vệ ngành nông nghiệp trong thương mại với Hoa Kỳ. Đây là lĩnh vực mà các nhà xuất khẩu Hoa Kỳ có tính cạnh tranh cao nhất. Do đó, bất kỳ thỏa thuận khả thi nào cũng có thể cần bao gồm các cam kết đáng tin cậy từ Hà Nội về hiện đại hóa hải quan, truy xuất nguồn gốc kỹ thuật số và tăng cường minh bạch về quy định – đặc biệt là trong lĩnh vực nông nghiệp, cũng như các lĩnh vực khác mà Hoa Kỳ tuyên bố có các rào cản tiếp cận dai dẳng, chẳng hạn như thiết bị y tế, ô tô và dịch vụ kỹ thuật số. Như một phần của thỏa thuận như vậy, Washington có thể xem xét một khuôn khổ đình chỉ có điều kiện, có thể được mô hình hóa theo các trường hợp bế tắc quy định tại Mục 301 trong quá khứ, theo đó các biện pháp trừng phạt được dỡ bỏ theo từng giai đoạn dựa trên các cột mốc thực hiện đã được xác định. Tuy nhiên, năng lực của Hà Nội để nhanh chóng thực hiện các cải cách cơ cấu như vậy bị hạn chế bởi sự tắc nghẽn thể chế, chẳng hạn như năng lực pháp luật hạn chế. Riêng về phía Hà Nội có thể sẽ quan ngại việc làm suy yếu chiến lược chính sách đối ngoại đa liên kết của mình bằng việc tham gia vào các cam kết sâu sắc, ràng buộc với Hoa Kỳ mà Trung Quốc có thể coi là quá nghiêng về phía Washington. Do đó, nếu một thỏa thuận được thực hiện, Việt Nam có khả năng nhất là đạt được một thỏa thuận hẹp, theo từng lĩnh vực cụ thể với Hoa Kỳ, đưa ra đủ nhượng bộ để chính quyền Trump tuyên bố chiến thắng chính trị, mà không vượt qua các ngưỡng có thể gây bất ổn cho nền kinh tế của Việt Nam hoặc kích hoạt các yêu cầu đối ứng từ các đối tác thương mại khác. Mặc dù chính quyền Trump khó có thể loại bỏ hoàn toàn thuế quan đối với Việt Nam, nhưng họ có thể giảm mức thuế để phù hợp hơn với thuế quan mới của Hoa Kỳ áp đặt lên các quốc gia khác trong khu vực (khoảng 20-35%). Nhưng nếu Việt Nam không đưa ra những nhượng bộ lớn cần thiết để nhanh chóng đạt được một thỏa thuận như vậy, mức thuế 46% có thể trở nên cố hữu, dẫn đến nguy cơ đứt gãy cơ cấu trong quan hệ kinh tế của hai nước. Điều này có thể dễ dàng ảnh hưởng đến mối quan hệ của hai bên trong các lãnh vực khác, như hợp tác quốc phòng và liên kết địa chính trị rộng lớn hơn.
– Trong các cuộc đàm phán thương mại tiềm năng, chính quyền Trump cũng có thể gây áp lực lên Việt Nam để đẩy nhanh sự tuân thủ với các chuẩn mực của Tổ chức Thương mại Thế giới về thực thi sở hữu trí tuệ và các rào cản kỹ thuật đối với thương mại. Mặc dù Việt Nam đã điều chỉnh khuôn khổ pháp lý của mình phù hợp với các chuẩn mực đó, nhưng việc thực thi vẫn không đồng đều và vẫn còn trở ngại do quan ngại chính trị.
– Việt Nam cũng thường xuyên bị chỉ trích vì không đáp ứng các cam kết CPTPP của mình trong nhiều lĩnh vực, bao gồm thực thi quyền sở hữu trí tuệ (mà Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland đã nêu bật vào năm 2023, lưu ý rằng việc thiếu minh bạch gây ra những thách thức cho các nhà đầu tư), các rào cản kỹ thuật đối với thương mại (được Ủy ban của CPTPP về Rào cản Kỹ thuật đối với Thương mại xem xét kỹ lưỡng vào năm 2024), minh bạch về quy định (Việt Nam bị Canada chỉ trích vào năm 2024 là thiếu các thủ tục đơn giản hóa), quyền lao động (mà Canada cũng cáo buộc vào năm 2023 là không phù hợp với các tiêu chuẩn CPTPP) và thủ tục hải quan (một lĩnh vực mà vào năm 2024, Ủy ban CPTPP cho biết Việt Nam không điều chỉnh phù hợp).
– Việt Nam có thể đề nghị tăng cường mua vũ khí của Hoa Kỳ để giảm bớt căng thẳng thương mại với chính quyền Trump. Các cuộc thảo luận đang được tiến hành về việc mua máy bay vận tải quân sự C-130 Hercules của công ty Lockheed Martin, mặc dù nhiều thiết bị quốc phòng của Hoa Kỳ có chi phí quá cao và gặp phải các vấn đề về khả năng tương tác với kho vũ khí chủ yếu do Nga sản xuất của Việt Nam. Tuy nhiên, sự hợp tác lớn hơn về vũ khí sẽ báo hiệu sự liên kết sâu sắc hơn với Hoa Kỳ nếu đạt được một thỏa thuận thương mại.
Đọc bản gốc ở đây. Một bản PDF được lưu trữ ở đây. Hướng dẫn quyền truy cập ở đây.
Anh James Nguyễn là một độc giả của Dự án Đại Sự Ký Biển Đông. Trong bối cảnh nhu cầu thông tin lớn và Dự án có thể tiếp cận được nhiều nguồn tư liệu giá trị nhưng không đủ nhân sự để xử lý, chúng tôi có thể mời độc giả cùng tham gia với chúng tôi.
Nguyên tắc hoạt động của Dự án Đại Sự Ký Biển Đông.
—————
Dự án Đại Sự Ký Biển Đông tồn tại dựa trên tài trợ của cộng đồng. Nếu quý độc giả muốn có một nguồn thông tin tri thức khách quan, đa chiều dựa trên chiều sâu chuyên môn và dữ liệu có hệ thống, Dự án Đại Sự Ký Biển Đông là một địa chỉ mà mọi người có thể tin tưởng. Hãy chung tay cùng với chúng tôi duy trì Dự án bằng cách tài trợ cho Dự án, và khuyến khích bạn bè, đồng nghiệp cùng tài trợ Dự án. Xem hướng dẫn tài trợ ở đây: https://dskbd.org/tai-tro-cho-du-an/. Báo cáo tài chính sẽ được tổng kết vào cuối năm. Chúng tôi xin trân trọng cảm ơn.
