Việt Nam Và Trung Quốc Tuyên Bố Nâng Cấp Quan Hệ Quan Trọng Trong Chuyến Thăm Của Tập 

Tác giả: Khang Vũ | The Diplomat

Biên dịch: Phan Nguyễn Hiền Linh | Hiệu đính: Khang Vũ

Dự án Đại Sự Ký Biển Đông: Trong dòng sự kiện Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình sang thăm Việt Nam cuối năm 2023, chúng tôi sẽ lần lượt giới thiệu từng phần nằm trong hồ sơ tổng hợp về sự kiện này, bao gồm các diễn biến được hệ thống hoá và các phân tích tiêu biểu chủ yếu liên quan đến chính sách ngoại giao Việt Nam. Cũng xin được nói rõ hơn, như những sản phẩm khác của chúng tôi, không gian diễn đàn của Dự án được mở từ nhiều năm nay với mong muốn hoạt động như một nền tảng thảo luận học thuật đa chiều, truyền tải những quan điểm đa dạng từ những góc nhìn khác nhau dựa trên nghiên cứu có chiều sâu và hệ thống hoá. Chúng tôi cũng sẵn sàng nhận đăng tải những bài viết mới phản biện trái ngược với những dòng quan điểm đã được giới thiệu trên diễn đàn Dự án, dựa trên nghiên cứu chiều sâu với lý lẽ và dữ liệu đạt chuẩn nghiên cứu.

Ảnh: The Diplomat

Việc Hà Nội quyết định gia nhập “Cộng đồng chung vận mệnh” của Bắc Kinh là nhất quán với chính sách đảm bảo lâu dài của quốc gia này đối với nước láng giềng phía Bắc. 

Sau nhiều suy đoán và trì hoãn, Chủ tịch nước Trung Quốc Tập Cận Bình cuối cùng đã thăm Việt Nam vào tuần này, nhằm đánh dấu lễ kỷ niệm nhân dịp 15 năm thiết lập quan hệ đối tác chiến lược toàn diện Việt Nam – Trung Quốc năm 2008. Cơ quan báo chí chính phủ Việt Nam gọi chuyến thăm là “cột mốc lịch sử”, có thể tăng cường quan hệ liên Đảng, liên nhà nước Trung Quốc – Việt Nam lên một tầm cao mới.

Tương tự, Tập viết một bài bình luận cho tờ báo “Nhân Dân” của Việt Nam, gợi ý rằng việc xây dựng một “cộng đồng chung vận mệnh” giữa Trung Quốc – Việt Nam sẽ mang nhiều ý nghĩa chiến lược trên tất cả các lĩnh vực của mối quan hệ song phương. Việt Nam cuối cùng đã tán thành công thức “cộng đồng chung vận mệnh” bất chấp sự hoài nghi trước đó, mặc dù trong tiếng Việt, tầm nhìn được dịch lặp đi lặp lại là “cộng đồng chia sẻ tương lai.”

Việt Nam và Trung Quốc cũng đã ký 36 văn kiện về trao đổi chính trị, chính sách đối ngoại, quốc phòng và hợp tác hàng hải. Việt Nam một lần nữa tái khẳng định chính sách đối ngoại “Bốn Không” của họ và đảm bảo với Trung Quốc rằng nỗ lực thúc đẩy quan hệ với các nước khác phản ánh chính sách đối ngoại đa phương của Việt Nam. Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh với ông Tập rằng Việt Nam ủng hộ Trung Quốc xây dựng chủ nghĩa xã hội và phát triển quan hệ với Trung Quốc là ưu tiên và lựa chọn chiến lược của Hà Nội.

Việt Nam tham gia “Cộng đồng chung vận mệnh” của Trung Quốc có thể dấy lên nhiều nghi ngại đâu đó rằng Việt Nam thừa nhận một tầm nhìn chống Hoa Kỳ, bất chấp cột mốc mang tính bước ngoặt là nâng cấp quan hệ lên Đối tác Chiến lược toàn diện với Hoa Kỳ của Việt Nam vào tháng Chín. Tuy nhiên, những nghi ngờ đó đã bỏ qua tư duy cơ bản về chính sách Trung Quốc của Việt Nam. Từ khi Việt Nam bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc năm 1991, sau sự sụp đổ của Liên Xô và giải quyết thỏa đáng vấn đề Campuchia, Hà Nội đã kiên quyết áp dụng chính sách đảm bảo đối với Trung Quốc rằng (1) Hà Nội luôn ưu tiên quan hệ với Bắc Kinh và (2) những diễn biến trong quan hệ với các nước khác không cấu thành một chính sách chống Trung Quốc. Chính sách đảm bảo của Việt Nam nhằm phục vụ một mục tiêu duy nhất, đó là ngăn chặn Trung Quốc xâm lược hay ép buộc Việt Nam thông qua đe dọa sử dụng vũ lực. Hà Nội không muốn những cuộc đụng độ thảm khốc những năm 1970 và những năm 1980 lặp lại.

Một quốc gia có hai phương thức để ngăn chặn một quốc gia khác xâm lược mình: hoặc là xây dựng lực lượng quân sự đủ mạnh để khiến việc xâm lược vào nước đó sẽ phải trả một cái giá đắt, hoặc đảm bảo với đối phương rằng nước đó không có ý định thù địch, để có thể tránh dẫn đến một cuộc gây hấn ngay từ bước đầu. Chính sách đối ngoại của Việt Nam đã phát triển trên cả hai khía cạnh, như là Việt Nam thúc đẩy quan hệ với Hoa Kỳ, Nga, Nhật Bản, Úc và các nước khác nhằm tăng cường năng lực phòng thủ. Cùng lúc đó, Việt Nam đảm bảo với Trung Quốc là Việt Nam không có ý định gây hấn thù địch đối với họ. Là một nước nhỏ, Việt Nam không thể kỳ vọng rằng liệu họ sẽ đủ mạnh để chống Trung Quốc chỉ dựa vào năng lực quốc phòng tự thân. Liên Xô đã hỗ trợ rất lớn về quân sự và kinh tế cho Việt Nam, chỉ thiếu bước đưa quân vào biên giới phía bắc của Trung Quốc, nhưng Hà Nội vẫn thất bại trong việc ngăn chặn cuộc xâm lược của Trung Quốc vào năm 1979 và sự đe doạ sử dụng vũ lực của Trung Quốc trong suốt những năm 1980. Sự viện trợ ngày càng giảm của Hoa Kỳ dành cho nước không đồng minh Ucraina sẽ càng thuyết phục Việt Nam hơn về điểm yếu của những cam kết an ninh của các cường quốc ngoài khu vực.

Vì vậy, Việt Nam ưu tiên ngăn chặn Trung Quốc bằng sự đảm bảo hơn là ngăn chặn Trung Quốc bằng vũ lực. Để bảo đảm với Trung Quốc, Hà Nội phải dựa vào ý thức hệ cộng sản chung. Không còn nghi ngờ gì, một ý thức hệ chung đã không thể ngăn cản Trung Quốc gây chiến với Việt Nam năm 1979; nhưng sẽ là quá đáng nếu cho rằng ý thức hệ không đóng một vai trò nổi bật trong mối quan hệ song phương. Hệ tư tưởng đó có thể không ngăn chặn nổi chiến tranh, nhưng nó hữu dụng trong việc báo hiệu về ý định hòa bình của Việt Nam đến Trung Quốc để giảm thiểu nguy cơ chiến tranh. Việt Nam đã nhiều lần tận dụng hệ tự tưởng chung này để ngăn cản các hành động khiêu khích của Trung Quốc đi quá xa.

Khi Trung Quốc đặt giàn khoan HD-981 vào vùng nước của Việt Nam vào tháng Năm năm 2014, làm dấy lên cuộc khủng hoảng tồi tệ nhất trong quan hệ Trung Quốc – Việt Nam từ 1991, thì Việt Nam, ngoài việc phản đối hành động gây hấn của Trung Quốc, đã khơi dậy mối quan hệ liên Đảng giữa Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Cộng sản Trung Quốc để đảm bảo với Trung Quốc rằng Việt Nam vẫn coi trọng tình hữu nghị Việt – Trung và rằng họ có thể giải quyết khủng hoảng một cách hòa bình.

Sau khi Trung Quốc đe dọa sử dụng vũ lực chống lại loạt hành động khoan của Việt Nam trên biển Đông vào tháng Bảy năm 2017 và hủy cuộc gặp với Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Việt Nam lúc đó là Phạm Bình Minh vào tháng sau, một lần nữa Việt Nam sử dụng ý thức hệ chung để đảm bảo với Trung Quốc rằng Việt Nam ủng hộ các diễn tiến của quan hệ liên Đảng, liên Nhà nước Trung Quốc – Việt Nam, bất chấp sự khác biệt trên biển, khi Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Trung Quốc Vương nghị thăm Hà Nội vào tháng Mười Một. Tương tự, vào tháng Bảy năm 2019, Trung Quốc điều một tàu khảo sát vào vùng biển Việt Nam để tiến hành khảo sát, dẫn đến một cuộc đối đầu trên biển. Việt Nam vẫn giữ nguyên kịch bản đó: khẳng định rằng mối quan hệ Trung-Việt được xây dựng trên ý thức hệ cộng sản sẽ giúp họ giải quyết những khác biệt trên biển.

Động thái tương tự đã được chứng kiến vào tháng Năm năm nay, khi Trung Quốc gửi tàu Hướng Dương Hồng 10 vào vùng đặc quyền kinh tế Việt Nam. Một tháng sau, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính một lần nữa nhấn mạnh tình hữu nghị về ý thức hệ giữa Việt-Trung sẽ là nền tảng căn bản cho Việt Nam làm việc với Trung Quốc để giải quyết những khác biệt trên biển. Trong mọi trường hợp, khủng hoảng trên biển kết thúc mà không bên nào sử dụng vũ lực.

Tuy nhiên, điều quan trọng cần lưu ý là trong khi Việt Nam áp dụng chính sách đảm bảo với Trung Quốc, nước này đã và đang từng bước cải thiện quan hệ quốc phòng với các nước khác, đáng chú ý nhất là với Hoa Kỳ kể từ năm 2014. Đây là một phương tiện khác cho phương trình răn đe của Việt Nam, trong trường hợp chính sách đảm bảo của nước này thất bại.

Về góc độ này, quyết định của Việt Nam về gia nhập “cộng đồng chung vận mệnh” đơn giản là động thái mới nhất trong chính sách đảm bảo đối với Trung Quốc. Trong suốt chuyến thăm của ông Tập, ông Trọng tiếp tục khẳng định rằng Việt Nam coi trọng mối quan hệ cộng sản với Trung Quốc, và ông hy vọng rằng hai nước có thể giải quyết khác biệt trên biển một cách hòa bình. Và bằng việc đảm bảo với Trung Quốc rằng Việt Nam ưu tiên phát triển mối quan hệ với nước này, Hà Nội có thể giảm thiểu sự hoài nghi của Trung Quốc về mối quan hệ đang phát triển của nước này với Hoa Kỳ.

Đối với Việt Nam, gia nhập “cộng đồng chung vận mệnh” không có nghĩa là Hà Nội có những thay đổi căn bản về chính sách đối ngoại của nước này. Việt Nam duy trì trung lập trong cuộc cạnh tranh siêu cường, và nước này mong muốn tranh thủ mối quan hệ ngày càng chặt chẽ với tất cả các quốc gia, bao gồm và ngoài Trung Quốc và Hoa Kỳ. Quan trọng hơn cả, chính sách đối ngoại về đảm bảo của Việt Nam không nên được xem là sự nhượng bộ. Việt Nam vẫn quyết tâm bảo vệ chủ quyền biển của nước này và để ngỏ khả năng hợp tác với các cường quốc khu vực khác dưới nguyên tắc “Một Tuỳ Theo” của nước này, nhằm cân bằng với Trung Quốc. Dẫu vậy, tư duy căn bản vẫn giống nhau: sự răn đe của Việt Nam chống lại Trung Quốc chỉ có tác dụng khi chính sách đảm bảo đối với Trung Quốc có hiệu quả.

Trung Quốc từ trước đến nay vẫn hợp tác với chính sách đảm bảo của Việt Nam, vì Bắc Kinh nhiều lần viện dẫn hệ tư tưởng cộng sản chung của mình để ràng buộc Việt Nam vào trật tự do Trung Quốc lãnh đạo và ngăn Hoa Kỳ “làm tổn hại” quan hệ Trung-Việt bằng cách cảnh báo Việt Nam về ý định thù địch của Hoa Kỳ đối với sự độc quyền quyền lực của Đảng Cộng sản Việt Nam. Không phải trùng hợp ngẫu nhiên mà ông Tập so sánh quan hệ giữa ông với ông Trọng như những người “họ hàng” và ủng hộ Việt Nam xây dựng xã hội chủ nghĩa. Một Việt Nam chia sẻ cùng hệ tư tưởng với Trung Quốc có lợi cho Trung Quốc, vì nó giúp loại bỏ nguồn gốc bất ổn ở biên giới phía nam của nước này.

“Cộng đồng chung vận mệnh” sẽ không ngăn chặn chiến tranh Trung – Việt trong tương lai, nhưng nó sẽ đủ mạnh để hai nước giải quyết những bất đồng của họ nhằm tránh một sự bế tắc trong mối quan hệ, như sự kiện năm 1978. Đối với Việt Nam, một mối quan hệ chặt chẽ hơn với Trung Quốc sẽ cho nước này nhiều dư địa để tăng cường quan hệ với Hoa Kỳ.

Khang Vũ là nghiên cứu sinh tiến sĩ tại Khoa Khoa học Chính trị tại Trường đại học Boston (Boston College). Bản gốc tiếng Anh được đăng lần đầu tại https://thediplomat.com/2023/12/vietnam-and-china-announce-major-upgrade-in-relations-during-xi-visit/.

Phan Nguyễn Hiền Linh là ứng viên cộng tác lĩnh vực Khoa học Chính trị của Dự án Đại Sự Ký Biển Đông.

Nguyên tắc hoạt động của Dự án Đại Sự Ký Biển Đông.

—————

Dự án Đại Sự Ký Biển Đông tồn tại dựa trên tài trợ của cộng đồng. Nếu quý độc giả muốn có một nguồn thông tin tri thức khách quan, đa chiều, hệ thống hoá và có chiều sâu chuyên môn, dựa trên dữ liệu (facts-based), Dự án Đại Sự Ký Biển Đông là một địa chỉ mà mọi người có thể tin tưởng. Hãy chung tay cùng với chúng tôi duy trì Dự án bằng cách tài trợ cho Dự án, và khuyến khích bạn bè, đồng nghiệp cùng tài trợ Dự án. Xem hướng dẫn tài trợ ở đây: https://dskbd.org/tai-tro-cho-du-an/. Báo cáo tài chính sẽ được tổng kết vào cuối năm. Chúng tôi xin trân trọng cảm ơn.

Leave a comment

This site uses Akismet to reduce spam. Learn how your comment data is processed.