Tác giả: Ben Bland | Foreign Policy ngày 18 tháng 7 năm 2025
Biên dịch: Lê Bá Nhật Thắng | Hiệu đính: Hương Nguyễn
Khi một tàu container nặng tải, thuộc sở hữu Đan Mạch, rời cảng Singapore và tiến vào vùng biển quốc tế, nó gửi tín hiệu đến hệ thống nhận dạng của tàu Trịnh Hoà của Trung Quốc, cập nhật tình trạng hàng hóa và lộ trình dự kiến qua Biển Đông đến Thượng Hải. Mặc dù lâu nay tồn tại lo ngại về mối đe dọa của Trung Quốc đối với tự do hải hành, Bắc Kinh vẫn cho phép mọi tàu thương mại tự do lưu thông trên các tuyến đường thương mại toàn cầu quan trọng này, miễn là họ áp dụng công nghệ giám sát do Trung Quốc phát triển. Trái ngược với điều đó, hoạt động của hải quân nước ngoài tại khu vực này bị hạn chế nghiêm ngặt, bởi quyền kiểm soát được duy trì qua lực lượng hải quân và hải cảnh vô song của Trung Quốc, được kết nối vào mạng lưới rộng lớn gồm tàu không người lái, máy bay không người lái, hệ thống cảm biến và vệ tinh.
Đó là một kịch bản viễn tưởng năm 2035, giả định về sự thống trị của Trung Quốc tại Biển Đông mà chúng tôi trình bày mới đây với các nhà hoạt động chính sách và chuyên gia hàng hải ở Đông Nam Á và Vương quốc liên hiệp Anh và Bắc Ireland trong một bài tập “lập kế hoạch ngược” (back-casting).
Backcasting là một kỹ thuật được chính phủ, cơ quan tình báo và quân đội sử dụng để giảm thiểu các định kiến của con người và khuyến khích tư duy phản biện. Nó là hình ảnh phản chiếu của hoạt động dự báo tương lai. Phương pháp này yêu cầu các nhà nghiên cứu phác thảo một viễn cảnh tương lai khả thi rồi làm việc ngược trở lại từ tương lai đó về hiện tại, đặt câu hỏi “làm thế nào chúng ta lại đến đây?” Mục tiêu không phải là dự đoán tương lai, mà là xác định các lực đẩy dài hạn và các điểm kích hoạt ngắn hạn.
Quỹ đạo và kết quả của các tranh chấp ở Biển Đông sẽ định hình bản chất và quy mô của sự trỗi dậy toàn cầu của Trung Quốc cũng như tương lai của tự do hàng hải và thương mại mở. Tuy nhiên, chúng tôi lo ngại rằng tư duy bầy đàn và chủ nghĩa ngắn hạn đang làm lu mờ nhận định về vùng biển này.
Chúng tôi đã xây dựng kịch bản của mình như một viễn cảnh xấu nhất nhưng có khả năng thực tế xảy ra (không tính các sự kiện thiên nga đen). Đáng chú ý, nhiều quan chức và nhà nghiên cứu mà chúng tôi trao đổi ở Đông Nam Á lại coi viễn cảnh đó chỉ đơn thuần là sự tiếp nối hiện trạng. Đó là một trong nhiều điều bất ngờ xuất hiện trong các cuộc thảo luận, cho thấy tầm quan trọng của những kỹ thuật như back-casting trong việc thách thức lối tư duy thông thường.
Khi Bắc Kinh củng cố vị thế dẫn đầu ở Biển Đông, các nhà phân tích quốc tế có xu hướng tập trung vào các yếu tố như sự mở rộng mạnh mẽ của hạm đội hải quân và hải cảnh Trung Quốc, việc Trung Quốc sử dụng các chiến thuật vùng xám, cũng như các vi phạm luật pháp quốc tế. Nhưng trong các cuộc thảo luận lập kế hoạch ngược của chúng tôi, các chuyên gia Đông Nam Á cho rằng sự kết hợp giữa sức mạnh kinh tế của Bắc Kinh và lợi thế ngày càng tăng của nước này trong công nghệ số và năng lượng tái tạo sẽ là những yếu tố quyết định hơn nếu Trung Quốc giành được quyền kiểm soát hoàn toàn Biển Đông.
Vậy kịch bản này có thể diễn ra như thế nào? Trung Quốc sẽ tiếp tục các hoạt động “tằm ăn dâu” ở Biển Đông, thăm dò những điểm yếu trong năng lực phòng thủ và hệ thống xã hội của các quốc gia có yêu sách khác (Brunei, Indonesia, Malaysia, Philippines, Đài Loan và Việt Nam), đồng thời làm suy yếu hệ thống liên minh của Hoa Kỳ. Nhưng động lực then chốt sẽ là sức mạnh kinh tế khổng lồ của nước này, được tận dụng thông qua các biện pháp vừa hấp dẫn vừa cưỡng chế.
Trung Quốc không chỉ là đối tác thương mại lớn nhất trong khu vực và một trong những nhà phát triển cơ sở hạ tầng hàng đầu. Nước này đang gắn kết các nền kinh tế Đông Nam Á vào mạng lưới sản xuất hàng đầu thế giới do mình dẫn dắt, đầu tư và thâu tóm những công ty khởi nghiệp nổi bật nhất trong khu vực (bao gồm GoTo Group, Lazada và Tokopedia), đồng thời cung cấp công nghệ số và năng lượng tái tạo tiên tiến với chi phí phải chăng. Càng nhiều hoạt động như vậy diễn ra, các chính phủ Đông Nam Á sẽ càng ít sẵn lòng đánh đổi lợi ích kinh tế của mình để phản kháng lại các biện pháp cưỡng ép trên biển của Bắc Kinh.
Một số nhà hoạch định chính sách và chuyên gia phân tích mà chúng tôi trao đổi tại Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland đã nghi ngờ triển vọng kinh tế dài hạn của Trung Quốc, viện dẫn các vấn đề như dân số già hóa, gánh nặng nợ nần của chính quyền địa phương và lĩnh vực bất động sản, cùng với môi trường chính sách bóp nghẹt khu vực tư nhân. Nhưng các nhân vật tham gia đối thoại ở Đông Nam Á cho rằng ngay cả khi tốc độ tăng trưởng chậm lại, Trung Quốc vẫn sẽ trở thành đối tác phát triển ngày càng quan trọng của các quốc gia trong khu vực trong thập kỷ tới, nhờ vị trí địa lý gần gũi và mối liên kết sâu rộng. Họ tin rằng giới tinh hoa chính trị Đông Nam Á sẽ không dám đối đầu chống lại Bắc Kinh trong thập kỷ tới, vì mong muốn duy trì dòng vốn và công nghệ, đồng thời lo ngại một cách có cơ sở rằng Bắc Kinh sẽ trừng phạt kinh tế những ai phản đối tại Biển Đông.
Điều này có lẽ phản ánh sự khác biệt trong ưu tiên: ở Đông Nam Á, sự thống trị kinh tế của Trung Quốc đã trở thành một thực tế cuộc sống và, không giống như khả năng cạnh tranh của Trung Quốc so với phương Tây, khó có thể bị đảo ngược ngay cả khi tăng trưởng của Trung Quốc chậm lại.
Những thách thức nguy hiểm mà các quốc gia ven biển Đông Nam Á phải đối mặt về biến đổi khí hậu, mực nước biển dâng cao cũng như nhu cầu năng lượng ngày càng tăng trong 10 năm tới có thể đẩy nhanh con đường thống trị của Trung Quốc. Mặc dù các chính quyền Hoa Kỳ trước đây và các đồng minh ở Châu Âu và Châu Á đã đưa ra vô số sáng kiến tài chính xanh trong khu vực, nhưng những sáng kiến này tiến triển chậm chạp, ngay cả trước khi Tổng thống Donald Trump trở lại Nhà Trắng và khiến chính sách khí hậu của Washington rơi vào hỗn loạn.
Trong khi đó, Trung Quốc đã thiết lập một vị trí thống lĩnh trong sản xuất pin mặt trời giá rẻ, tua-bin gió, công nghệ ắc quy và xe điện, biến nước này thành một đối tác không thể thiếu đối với Đông Nam Á khi khu vực này đang hứng chịu tác động của biến đổi khí hậu. Sự kết hợp giữa công nghệ năng lượng tái tạo với mạng lưới kỹ thuật số, phần mềm, trí tuệ nhân tạo và sức mạnh kinh tế truyền thống của Trung Quốc có khả năng kéo Đông Nam Á sâu hơn vào quỹ đạo của nước này.
Liệu Hoa Kỳ có nhất thiết phải rút lui hoàn toàn về mặt quân sự khỏi Châu Á để Trung Quốc chiếm lĩnh Biển Đông hay không? Đã có cuộc tranh luận sôi nổi về câu hỏi này ở Vương quốc Anh và Bắc Ireland cùng với Đông Nam Á, trong đó các chuyên gia Châu Âu tin tưởng hơn những người Đông Nam Á rằng lập trường của Hoa Kỳ sẽ đóng vai trò quan trọng. Trung Quốc đã làm rất nhiều để khẳng định quyền kiểm soát những vùng biển tranh chấp này, bao gồm xây dựng và củng cố các căn cứ lớn trên đảo cũng như uy hiếp các nước láng giềng. Điều đó diễn ra bất chấp sự lên án liên tục của Hoa Kỳ kể từ khi Ngoại trưởng Hillary Clinton tuyên bố vào năm 2010 rằng Hoa Kỳ có lợi ích quốc gia trong tự do hải hành và tôn trọng luật pháp quốc tế ở Biển Đông. Nếu Washington giữ nguyên lập trường tương tự, Trung Quốc có nhiều khả năng tiếp tục đi theo con đường hiện tại. Chắc chắn sẽ cần một phản ứng mạnh mẽ hơn rất nhiều từ Washington, đẩy khả năng leo thang căng thẳng, để ngăn chặn Trung Quốc. Và điều đó cũng tiềm ẩn những rủi ro riêng.
Vậy làm thế nào để ngăn chặn Trung Quốc mà không làm gia tăng rủi ro chiến tranh giữa hai siêu cường hạt nhân? Trớ trêu thay, mặc dù các quan chức Đông Nam Á thường phàn nàn rằng Hoa Kỳ và các đồng minh phớt lờ vai trò của họ, rất ít người trong số những người tham gia từ Đông Nam Á tin rằng chính phủ của họ có khả năng chủ động định hình kết quả ở Biển Đông. Và không ai trong số những người tham gia buổi thảo luận lập kế hoạch ngược của chúng tôi cho rằng Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), tổ chức khu vực, sẽ tạo được ảnh hưởng.
Thay vào đó, quan điểm chung cho rằng một Trung Quốc ngày càng mạnh mẽ và quyết đoán sẽ chiến thắng sự tự mãn và tầm nhìn ngắn hạn của các nước Đông Nam Á, khi Hoa Kỳ hùng hồn trong lời nói nhưng lại thận trọng trong hành động.
Tuy nhiên, dù không ngây thơ trong một thế giới nơi sức mạnh thô bạo và những kẻ liều lĩnh dường như chiếm ưu thế, chúng tôi tin rằng vẫn có những cách thức có thể ngăn Trung Quốc hoàn toàn thống trị Biển Đông. Thành công của bất kỳ nỗ lực nào như vậy phụ thuộc vào tính thực dụng; việc đảo ngược hoàn toàn quyền lực của Bắc Kinh trong khu vực là phi thực tế, nhưng các quốc gia Đông Nam Á và các đối tác ngoài khu vực của họ có một loạt lựa chọn thực tế để ngăn Trung Quốc tiến xa hơn. Điều đầu tiên trong số này phải là ngăn chặn Trung Quốc xâm phạm thêm lợi ích hàng hải của Đông Nam Á. Yêu cầu quan trọng nhất và cũng nhiều thách thức nhất cho mục tiêu là ý chí chính trị từ phía các quốc gia Đông Nam Á để gạt bỏ những bất đồng nội khối và đưa ra một lập trường thống nhất chống lại các hoạt động vùng xám của Trung Quốc, nhằm ngăn chặn những nỗ lực của Trung Quốc làm suy yếu sự đoàn kết của ASEAN.
Một lập trường chung như vậy cần được hỗ trợ bởi năng lực răn đe đáng tin cậy. Một phương thức tương đối tiết kiệm và hiệu quả để thực hiện điều này là phát triển năng lực tuần tra hàng hải tự hành và tăng cường giám sát biển. Việc này có thể được thực hiện phối hợp với nhiều đối tác ngoài khu vực, bao gồm Úc, Nhật Bản, Hàn Quốc và Hoa Kỳ, cũng như Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland, Pháp và các quốc gia Châu Âu khác.
Rõ ràng, việc hỗ trợ nhiệm vụ này nằm trong lợi ích của những quốc gia đó; khi khả năng triển khai sức mạnh hải quân của Trung Quốc ngày càng gia tăng, nước rất có thể sẽ mở rộng các hoạt động hàng hải vùng xám sang những khu vực khác nếu không vấp phải sự răn đe đáng tin cậy.
Tuy nhiên, thách thức dài hạn lớn hơn đối với các quốc gia Đông Nam Á là giảm sự phụ thuộc kinh tế và công nghệ vào Trung Quốc, trong khi tránh chọn phe trong cuộc cạnh tranh ngày càng gia tăng giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ, đặc biệt khi phải đối mặt với một chính quyền Washington ngày càng theo chủ nghĩa bảo hộ.
Chiến lược tốt nhất sẽ là đa dạng hóa, bao gồm thúc đẩy thương mại nội khối, với trọng tâm đặc biệt vào việc tìm nguồn cung cấp năng lượng và công nghệ mới nổi từ bên ngoài Trung Quốc hoặc Hoa Kỳ.
Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) – một hiệp định thương mại bao gồm Brunei, Malaysia, Singapore và Việt Nam cùng với Úc, Nhật Bản và Vương quốc liên hiệp Anh và Bắc Ireland – là một nền tảng hữu ích, nhất là khi các nền kinh tế khác trong khu vực, bao gồm Indonesia và Hàn Quốc, đã bày tỏ mong muốn gia nhập.
Tầm ảnh hưởng kinh tế của Trung Quốc ở Đông Nam Á – cùng với khả năng cũng như sự sẵn sàng của nước này trong việc cung cấp các hệ thống kỹ thuật số và công nghệ năng lượng tái tạo giá rẻ, hiệu quả ở quy mô lớn – không thể được thay thế hoàn toàn, ngay cả khi có sự tham gia sâu rộng của các đối tác như Châu Âu, Nhật Bản, Hàn Quốc và Úc. Nhưng thông qua hợp tác trong và ngoài khu vực, các quốc gia Đông Nam Á có thể đa dạng hóa chuỗi cung ứng của mình và tạo ra những thị trường ngách mà Trung Quốc chưa thống trị. Đặc biệt, họ nên nỗ lực thu hút đầu tư từ bên ngoài vào các lĩnh vực có thể mang lại đòn bẩy tương hỗ cho các nền kinh tế trong khu vực trước Trung Quốc.
Khi theo đuổi chuyển đổi xanh và tăng cường số hóa, các quốc gia Đông Nam Á nên tránh phụ thuộc quá mức vào công nghệ Trung Quốc bằng cách tìm kiếm các nhà cung cấp thay thế cho năng lượng tái tạo, năng lượng hạt nhân và hệ thống trí tuệ nhân tạo (AI). Các quốc gia ngoài khu vực nên lắng nghe kỹ lưỡng nhu cầu của khu vực khi nói đến các chiến lược khử cacbon và giảm thiểu biến đổi khí hậu, đồng thời điều chỉnh sự tham gia của họ cho phù hợp. Đối với các hệ thống AI, các đối tác bên ngoài có thể thu được lợi ích khi thiết lập một không gian thay thế, không bị chi phối bởi công nghệ Trung Quốc hoặc Hoa Kỳ.
Một trong những yếu tố mang tính hướng dẫn nhất của phương pháp lập kế hoạch ngược là chứng kiến sự bối rối của các chuyên gia luật pháp quốc tế khi họ nghe người khác lập luận rằng các quy trình pháp lý sẽ hầu như không thể làm gì để giúp định hình sự thay đổi cán cân quyền lực ở Biển Đông trong thập kỷ tới. Các quan chức, nhà nghiên cứu và học giả, những người dành phần lớn thời gian quan sát một vấn đề cụ thể qua một lăng kính nhất định, có xu hướng mất đi cái nhìn tổng thể cũng như cách thức mà các mối liên kết và sự phụ thuộc lẫn nhau thúc đẩy sự thay đổi.
Khi Trung Quốc tiếp tục củng cố vị thế, có một nhu cầu cấp bách đối với các quốc gia Đông Nam Á có yêu sách và các đối tác quan tâm đến tương lai Biển Đông phải nhìn nhận các tranh chấp ở tầm rộng hơn nhiều. Bằng cách hiểu cách Bắc Kinh đang kết hợp công nghệ, sức mạnh công nghiệp, sức mạnh kinh tế, sức mạnh quân sự và tham vọng ngoại giao, các quốc gia Đông Nam Á và các đối tác của họ ở Châu Âu, Hoa Kỳ và Châu Á có thể phản ứng hiệu quả hơn, sử dụng lợi thế độc đáo của các liên minh và mạng lưới đáng tin cậy của họ. Bằng cách nhận thức rõ cách thức Bắc Kinh đang phối hợp công nghệ, năng lực công nghiệp, sức mạnh kinh tế, tiềm lực quân sự và tham vọng ngoại giao, các quốc gia Đông Nam Á cùng các đối tác ở Châu Âu, Hoa Kỳ và Châu Á có thể phản ứng hiệu quả hơn, tận dụng lợi thế độc đáo từ các liên minh và mạng lưới tin cậy của mình.
Ben Bland, giám đốc chương trình Châu Á-Thái Bình Dương tại Chatham House, và William Matthews, nghiên cứu viên cao cấp về Trung Quốc và thế giới tại Chatham House. Lê Bá Nhật Thắng và Th.S Hương Nguyễn là cộng tác viên Dự án Đại Sự Ký Biển Đông.
Có thể đọc bài viết gốc ở đây. Một bản PDF dành cho nhà tài trợ ở đây. Xem hướng dẫn truy cập ở đây.
Nguyên tắc hoạt động của Dự án Đại Sự Ký Biển Đông.
—————
Dự án Đại Sự Ký Biển Đông tồn tại dựa trên tài trợ của cộng đồng. Nếu quý độc giả muốn có một nguồn thông tin tri thức khách quan, đa chiều dựa trên chiều sâu chuyên môn và dữ liệu có hệ thống, Dự án Đại Sự Ký Biển Đông là một địa chỉ mà mọi người có thể tin tưởng. Hãy chung tay cùng với chúng tôi duy trì Dự án bằng cách tài trợ cho Dự án, và khuyến khích bạn bè, đồng nghiệp cùng tài trợ Dự án. Xem hướng dẫn tài trợ ở đây: https://dskbd.org/tai-tro-cho-du-an/. Báo cáo tài chính sẽ được tổng kết vào cuối năm. Chúng tôi xin trân trọng cảm ơn.

[…] thức dư luận trên không gian truyền thông, mạng xã hội. Trong bài bình luận “Lập Kế Hoạch Ngược: Sự Thống Trị Của Bắc Kinh Đối Với Biển Đông Có Sẽ…” mà chúng tôi đã giới thiệu cách đây mấy ngày, tác giả Ben Bland từ Chatham […]
LikeLike