(Trích trong Chuyên mục “Mỗi tuần một chương sách” của Bản Tin Biển Đông Số 145. Truy cập tại https://dskbd.org/2024/03/27/ban-tin-bien-dong-so-145-phan-iii/)
Li Tana (2024). A Maritime Vietnam: From Earliest Times to the Nineteenth Century. Cambridge University Press
Phần giới thiệu
Cuốn sách tiếp theo mà Dự án Đại Sự Ký Biển Đông sẽ giới thiệu trong chuyên mục “Mỗi tuần một chương sách” là một cuốn sách mới được xuất bản gần đây, được đánh giá là sẽ làm thay đổi nhận thức truyền thống về lịch sử hàng hải của Việt Nam. Mặc dù có đường bờ biển dài 3000 km nhưng Việt Nam ít được coi là một quốc gia biển. Thông qua cuốn sách “A Maritime Vietnam – From Earliest Times to the Nineteenth Century” của tác giả Li Tana, lịch sử biển của Việt Nam được tái hiện độc đáo. Nhà nghiên cứu Li đưa ra khẳng định: kinh tế và các yếu tố khác của biển đã tác động đến những thay đổi chính trị quan trọng trong lịch sử Việt Nam. Cuốn sách trình bày chi tiết về vai trò của thương mại hàng hải và thương mại liên khu vực trong lịch sử ban đầu của Việt Nam, khoảng hai thiên niên kỷ trước thời kỳ thuộc địa. Dựa trên nghiên cứu toàn diện từ các nguồn tài liệu của Trung Quốc, Việt Nam và Nhật Bản, tác giả nhận định, để hiểu đúng đắn về lịch sử Việt Nam cần xem xét bối cảnh hàng hải nước này. Ngược lại với nhận thức truyền thống về một xã hội. bị chi phối bởi ảnh hưởng văn hóa Trung Quốc, Việt Nam được định hình bởi sự tiếp xúc văn hóa và kinh tế ven biển năng động.
Trong phần mở đầu, tác giả đề cập đến thế kỷ 15 dưới thời nhà Lê, Đại Việt là quốc gia có nền quân sự mạnh ở Đông Nam Á khi phát triển được súng. Để có nguyên liệu cho thuốc súng, các đường dây buôn lậu với Trung Quốc đã được thiết lập. Điều này thách thức các góc nhìn lịch sử truyền thống, rằng Đại Việt là quốc gia nông nghiệp, phát triển trong nước, trong khi thực tế, kinh tế và quân sự Đại Việt chịu tác động của thương mại hàng hải và thương mại liên vùng. Cách nghiên cứu lịch sử truyền thống đã bỏ qua tầm quan trọng của thương mại hàng hải tại Việt Nam.
Trong cuốn sách này, hàng hải Việt Nam được trình bày trong mười chương theo trình tự thời gian, sắp xếp xoay quanh ba chủ đề chính, bao gồm (i) chủ nghĩa đô thị; (ii) tầm quan trọng của mạng lưới Hồi giáo đối với cả Champa và Đại Việt; và (iii) mối liên hệ giữa các tổ chức phi quốc gia và cộng đồng ven biển trên cả hai bờ Biển Đông. Thứ nhất, tác giả thảo luận về Giao Chỉ, vùng đất được coi là nền tảng của Đại Việt độc lập, giúp nước này là một thực thể hàng hải. Biển mang lại sự giàu có chính cho Giao Chỉ, dù vậy, không giống như Champa hay Đông Nam Á hải đảo, Giao Chỉ chỉ là tiền đồn trên biển của các đế quốc Trung Quốc. Vùng đất này không chỉ đơn thuần đóng vai trò là một tỉnh của Trung Quốc mà còn gần giống với Hồng Kông của Trung Quốc thời nhà Thanh. Nguyên nhân vì đây nơi trung chuyển hàng hóa theo cả hai hướng giữa Biển Đông và Trung Quốc, một trung tâm gặp gỡ của Phật giáo và đạo Bà la môn, và là nơi ở nhiều học giả hàng đầu của Trung Quốc thời bấy giờ. Tất cả chứng minh một Giao Chỉ giàu có, thú vị, nơi các dân tộc và ý tưởng đa dạng có thể hòa quyện. Từ góc độ này, có thể giải thích về sự tăng trưởng dân số nhanh chóng của Giao Chỉ, phát triển tôn giáo và tập trung mở rộng về tổ chức đời sống và sản xuất. Thứ hai, mạng lưới Hồi giáo góp phần ảnh hưởng đến lịch sử vùng đất này. Đại Việt, sau khi ly khai từ Đồng bằng sông Hồng của Trung Quốc vào thế kỷ thứ mười, đã chuyển đổi cả về chính trị và kinh tế. Từ thế kỷ thứ hai trước Công nguyên, Giao Chỉ từng là cửa ngõ chính của Trung Quốc với thương mại nước ngoài, như Chương 1 và 2 sẽ trình bày. Trong Chương 3 và 5, tác giả khai thác vùng đất Champa ở phía nam Đại Việt với những hoạt động thương mại ở vùng biển Đông Nam Á và các vùng đất liền như Lào và Campuchia. Chương 6 nhấn mạnh đến những diễn biến quan trọng trong lịch sử Đại Việt, bao gồm sự bùng nổ dân số, mở rộng nông nghiệp đến bờ biển, hội nhập chính trị ở thượng nguồn, trung lưu và duyên hải, các phát triển văn hóa như sự trỗi dậy của Nho giáo mới, và xuất khẩu gốm sứ – tất cả đều được thúc đẩy, ít nhất một phần, do tác động của các ảnh hưởng và cơ hội hàng hải. Đến khi Champa sụp đổ, giao thương giữa Đại Việt với Chăm và Khmer bị ảnh hưởng, mối liên hệ với người Hồi giáo cũng mất đi. Thứ ba, cuốn sách xem xét đến các chủ thể không phải người Việt. Nhiều nghiên cứu về Việt Nam không thừa nhận vai trò kinh tế của các chủ thể này nhưng điều này không có nghĩa là không có hoạt động nào như vậy xảy ra. Nhiều nguồn khác nhau gợi ý rằng thương mại Việt – Trung thời kỳ hậu độc lập đã tồn tại. Ví dụ như trong Chương 4, Li Tana đề cập tới mạng lưới các quan chức Việt Nam trên bờ biển, các quan chức nhà Tống ở miền nam Trung Quốc, và các thủ lĩnh Tai-Kadai ở giữa đã kết hợp cho hoạt động buôn bán muối qua Vân Nam hoặc Quảng Tây vào nội địa Trung Quốc. Những người làm muối, thương nhân, người bán rong, thủy thủ,… ở cả hai bờ biển của Trung Quốc và Việt Nam không để lại ghi chép bằng văn bản nào về kinh nghiệm hàng ngày và sinh kế hàng hải của do lo ngại thu hút sự chú ý không mong muốn từ chính phủ.
Tác giả đặt câu hỏi, tại sao trong lịch sử dân tộc Việt Nam, câu chuyện về biển lại mờ nhạt đến vậy. Việt Nam với tư cách là một quốc gia dân tộc đã nhận thức sâu sắc về vị trí lịch sử của mình, nằm giữa Trung Quốc và Champa, một bên là kẻ xâm lược thường trực và một bên là đối thủ lâu năm đã bại trận. Tuy nhiên, chính Champa đã đặt ra vấn đề hóc búa và khó xử nhất đối với các học giả Việt Nam. Lo ngại quan hệ với các nước láng giềng và căng thẳng tồn tại giữa nhiều dân tộc, các nhà sử học lựa chọn xây dựng hình ảnh Việt Nam an toàn: “Việt Nam nông nghiệp, làng quê và Nho giáo”. Sau này, khi phải liên tục đấu tranh với các cuộc kháng chiến, Việt Nam tận dụng hình ảnh của một dân tộc thống nhất để kêu gọi sự đồng lòng. Tất cả những yếu tố này làm phai mờ đi khía cạnh lịch sử về người Chăm và lịch sử về hàng hải.
Đón xem từng chương của cuốn sách sẽ được tóm tắt và giới thiệu trong những Bản Tin Biển Đông tiếp theo.
Xem thêm về cuốn sách ở đây.
Xem hướng dẫn cách truy cập ở đây.
Nguyên tắc hoạt động của Dự án Đại Sự Ký Biển Đông.
—————
Dự án Đại Sự Ký Biển Đông tồn tại dựa trên tài trợ của cộng đồng. Nếu quý độc giả muốn có một nguồn thông tin tri thức khách quan, đa chiều, hệ thống hoá và có chiều sâu chuyên môn, dựa trên dữ liệu (facts-based), Dự án Đại Sự Ký Biển Đông là một địa chỉ mà mọi người có thể tin tưởng. Hãy chung tay cùng với chúng tôi duy trì Dự án bằng cách tài trợ cho Dự án, và khuyến khích bạn bè, đồng nghiệp cùng tài trợ Dự án. Xem hướng dẫn tài trợ ở đây: https://dskbd.org/tai-tro-cho-du-an/. Báo cáo tài chính sẽ được tổng kết vào cuối năm. Chúng tôi xin trân trọng cảm ơn.
