Tại Sao Bắc Kinh Kiên Trì Với Mô Hình Kinh Tế Thất Bại

Tác giả: Lưu Tông Viện | Foreign Affairs ngày 06 tháng 8 năm 2024

Biên dịch: Lê Bá Nhật Thắng | Dự án Đại Sự Ký Biển Đông

Xe ô tô được tập trung tại một cảng ở Yên Đài, tỉnh Sơn Đông, Trung Quốc để xuất khẩu. Ảnh: Sipa US / Alamy Stock Photo

Nền kinh tế Trung Quốc đang rơi vào bế tắc. Sau quyết định của Bắc Kinh vào cuối năm 2022 – đột ngột chấm dứt chính sách “không COVID” hà khắc, nhiều nhà quan sát đã giả định động lực tăng trưởng của Trung Quốc sẽ nhanh chóng bùng nổ trở lại. Sau nhiều năm phong tỏa vì đại dịch khiến một số lĩnh vực kinh tế gần như dừng lại, việc mở cửa trở lại đất nước được cho là sẽ tạo ra sự phục hồi mạnh mẽ. Trái với kỳ vọng, quá trình phục hồi đã chững lại, với hiệu suất GDP chậm chạp, lòng tin của người tiêu dùng giảm sút, xung đột ngày càng gia tăng với phương Tây và giá bất động sản sụp đổ khiến một số công ty lớn nhất Trung Quốc vỡ nợ. Vào tháng 7 năm 2024, dữ liệu chính thức của Trung Quốc công bố tăng trưởng GDP đang tụt hậu so với mục tiêu của chính phủ khoảng năm phần trăm. Chính phủ cuối cùng đã cho phép người dân Trung Quốc tự do ra đường nhưng không thể tái khôi phục sức mạnh kinh tế trước đó.

Để giải thích cho viễn cảnh ảm đạm này, các nhà quan sát phương Tây đã đưa ra nhiều lời giải thích khác nhau. Trong số đó, những lý do lớn nhất bao gồm cuộc khủng hoảng bất động sản kéo dài của Trung Quốc, dân số già hóa nhanh chóng, sự kiểm soát chặt chẽ của nhà lãnh đạo Trung Quốc Tập Cận Bình đối với nền kinh tế và phản ứng cực đoan trước đại dịch. Nhưng có một lý do sâu xa hơn cho tình trạng trì trệ hiện tại: Chiến lược kinh tế kéo dài hàng thập kỷ ưu tiên sản xuất công nghiệp hơn tất cả mọi thứ khác, một cách tiếp cận mà theo thời gian đã dẫn đến tình trạng dư thừa năng lực cấu trúc rất lớn, nguyên nhân này giải thích chủ nghĩa độc đoán ngày càng gia tăng của Tập Cận Bình hoặc tác động của thị trường bất động sản sụp đổ. Trong nhiều năm, các chính sách công nghiệp của Bắc Kinh đã dẫn đến tình trạng đầu tư quá mức vào các cơ sở sản xuất trong các lĩnh vực từ nguyên liệu thô đến các công nghệ mới nổi như pin và rô bốt, thường khiến các thành phố và công ty Trung Quốc phải gánh chịu gánh nặng nợ nần khổng lồ trong quá trình này.

Nói một cách đơn giản, trong nhiều lĩnh vực kinh tế quan trọng, Trung Quốc đang sản xuất nhiều sản lượng hơn nhiều so với mức mà nước này hoặc các thị trường nước ngoài có thể hấp thụ một cách bền vững. Do đó, nền kinh tế Trung Quốc có nguy cơ rơi vào vòng luẩn quẩn của giá cả giảm, phá sản, đóng cửa nhà máy và cuối cùng là mất việc làm. Lợi nhuận giảm đã buộc các nhà sản xuất phải tăng sản lượng hơn nữa và giảm giá mạnh hơn để tạo ra tiền mặt trả nợ. Hơn nữa, khi các nhà máy buộc phải đóng cửa và các ngành công nghiệp phải hợp nhất, các công ty còn trụ lại không nhất thiết là những công ty hiệu quả nhất hoặc có lợi nhuận cao nhất. Thay vào đó, những công ty còn tồn tại có xu hướng là những công ty có khả năng tiếp cận tốt nhất với các khoản trợ cấp của chính phủ và nguồn tài chính giá rẻ.

Kể từ giữa những năm 2010, vấn đề này cũng đã trở thành một nguyên nhân gây bất ổn trong thương mại quốc tế. Bằng cách tạo ra tình trạng dư cung trên thị trường toàn cầu đối với nhiều mặt hàng, các công ty Trung Quốc đang đẩy giá xuống dưới điểm hòa vốn đối với các nhà sản xuất ở các quốc gia khác. Vào tháng 12 năm 2023, Chủ tịch Ủy ban Châu Âu Ursula von der Leyen đã cảnh báo rằng sản lượng dư thừa của Trung Quốc đang gây ra tình trạng mất cân bằng thương mại “không bền vững” và cáo buộc Bắc Kinh tham gia vào các hoạt động thương mại không công bằng, ví dụ như bán tháo số lượng lớn sản phẩm của Trung Quốc vào thị trường Châu Âu với giá siêu thấp. Vào tháng 4, Bộ trưởng Tài chính Hoa Kỳ Janet Yellen đã cảnh báo rằng việc Trung Quốc đầu tư quá mức vào thép, xe điện và nhiều mặt hàng khác đang đe dọa gây ra “sự gián đoạn kinh tế” trên toàn cầu, “sản phẩm Trung Quốc hiện quá lớn để phần còn lại của thế giới có thể hấp thụ được số lượng khổng lồ này,” Yellen nói.

Mặc dù Bắc Kinh phủ nhận kịch liệt luận điểm trên nhưng trong nhiều thập kỷ, chính sách công nghiệp của Trung Quốc đã dẫn đến các chu kỳ dư thừa sản xuất liên tục. Trong nước, các nhà máy trong các lĩnh vực ưu tiên do chính phủ chỉ định của nền kinh tế thường xuyên bán sản phẩm dưới giá thành để đáp ứng các mục tiêu chính trị của địa phương và quốc gia. Và Bắc Kinh thường xuyên tăng mục tiêu sản xuất đối với nhiều mặt hàng, ngay cả khi mức hiện tại đã vượt quá nhu cầu. Một phần, điều này bắt nguồn từ truyền thống lâu đời về kế hoạch kinh tế, trong đó chú trọng rất nhiều vào sản xuất công nghiệp và phát triển cơ sở hạ tầng trong khi hầu như bỏ qua mức tiêu dùng của hộ gia đình. Sự kiểm soát này không phải xuất phát từ sự thiếu hiểu biết hay tính toán sai lầm; mà đúng hơn, nó phản ánh tầm nhìn kinh tế lâu dài của Đảng Cộng sản Trung Quốc.

Theo quan điểm của Đảng, tiêu dùng là hành vi sao nhãng mang tính cá nhân, đe dọa chuyển hướng nguồn lực khỏi sức mạnh kinh tế cốt lõi của Trung Quốc: nền tảng công nghiệp của nước này. Theo chính luận của đảng, lợi thế kinh tế của Trung Quốc bắt nguồn từ mức tiêu dùng thấp và tỷ lệ tiết kiệm cao, tạo ra vốn mà hệ thống ngân hàng do nhà nước kiểm soát có thể chuyển vào các doanh nghiệp công nghiệp. Hệ thống này cũng củng cố sự ổn định chính trị bằng cách đưa hệ thống phân cấp của đảng vào mọi lĩnh vực kinh tế. Bởi vì nền tảng công nghiệp phình to của Trung Quốc phụ thuộc vào nguồn tài chính giá rẻ để tồn tại – nguồn tài chính mà giới lãnh đạo Trung Quốc có thể hạn chế bất cứ lúc nào nên giới tinh hoa kinh doanh bị ràng buộc chặt chẽ, thậm chí là phục tùng, vào lợi ích của Đảng. Ở phương Tây, tài chính ảnh hưởng đến chính trị, nhưng ở Trung Quốc thì ngược lại: chính trị ảnh hưởng đến nguồn tiền. Rõ ràng nền kinh tế Trung Quốc cần phải tạo ra sự cân bằng mới giữa đầu tư và tiêu dùng, nhưng Bắc Kinh khó có thể thực hiện sự thay đổi này vì họ phụ thuộc vào sự kiểm soát chính trị có được từ chính sách kinh tế tập trung vào sản xuất.

Đối với phương Tây, vấn đề dư thừa năng lực sản xuất của Trung Quốc đặt ra một thách thức dài hạn không thể giải quyết chỉ bằng cách dựng lên các rào cản thương mại mới. Xét trên một phương diện, ngay cả khi Hoa Kỳ và Châu Âu có thể hạn chế đáng kể lượng hàng hóa Trung Quốc đến các thị trường phương Tây, thì điều đó cũng không thể giải quyết được tình trạng kém hiệu quả về mặt cấu trúc kinh tế ở Trung Quốc trong nhiều thập kỷ, khi đất nước ưu tiên các mục tiêu đầu tư và sản xuất công nghiệp. Bất kỳ sự điều chỉnh lộ trình nào cũng có thể mất nhiều năm thực hiện chính sách liên tục để thành công. Mặt khác, việc Tập Cận Bình ngày càng nhấn mạnh vào việc khiến Trung Quốc tự cung tự cấp về mặt kinh tế – một chiến lược tự thân là phản ứng trước những nỗ lực của phương Tây nhằm cô lập quốc gia này về mặt kinh tế – đã làm tăng, thay vì giảm, áp lực dẫn đến tình trạng sản xuất quá mức. Hơn nữa, những nỗ lực của Washington nhằm ngăn chặn tình trạng Hoa Kỳ tràn ngập hàng hóa giá rẻ trong các lĩnh vực quan trọng chỉ có khả năng tạo ra tình trạng kém hiệu quả mới trong nền kinh tế Hoa Kỳ, ngay cả khi họ chuyển vấn đề sản xuất quá mức của Trung Quốc sang các thị trường quốc tế khác.

Nếu nhìn theo cách khác, các nhà lãnh đạo và nhà hoạch định chính sách phương Tây sẽ làm tốt khi hiểu được những động lực sâu xa thúc đẩy tình trạng dư thừa năng lực sản xuất của Trung Quốc và đảm bảo rằng các chính sách của họ không khiến tình hình trở nên tồi tệ hơn. Thay vì tìm cách cô lập Trung Quốc hơn nữa, phương Tây nên thực hiện các bước để giữ Bắc Kinh vững chắc trong hệ thống thương mại toàn cầu, sử dụng các động lực của thị trường toàn cầu để định hướng Trung Quốc theo hướng tăng trưởng cân bằng hơn và các chính sách công nghiệp ít nặng tay hơn. Nếu không có một chiến lược như vậy, phương Tây có thể phải đối mặt với một Trung Quốc ngày càng không bị ràng buộc bởi các mối quan hệ kinh tế quốc tế và sẵn sàng tăng gấp đôi chiến lược sản xuất do nhà nước lãnh đạo, ngay cả khi có nguy cơ gây hại cho nền kinh tế toàn cầu và kìm hãm sự thịnh vượng của chính mình.

THẤT BẠI SẢN XUẤT

Các vấn đề về cấu trúc kinh tế gây ra tình trạng trì trệ kinh tế của Trung Quốc không phải là kết quả của các lựa chọn chính sách gần đây. Chúng bắt nguồn trực tiếp từ chiến lược công nghiệp mất cân bằng đã hình thành trong những năm đầu của kỷ nguyên cải cách của Trung Quốc, bốn thập kỷ trước. Kế hoạch 5 năm lần thứ sáu của Trung Quốc (1981–85) là kế hoạch đầu tiên được lập ra sau khi nhà lãnh đạo Trung Quốc Đặng Tiểu Bình mở cửa nền kinh tế Trung Quốc. Mặc dù bản kế hoạch này dài hơn 100 trang, nhưng hầu hết đều dành cho việc phát triển khu vực công nghiệp của Trung Quốc, mở rộng thương mại quốc tế và thúc đẩy công nghệ; chỉ có một trang dành cho chủ đề tăng thu nhập và tiêu dùng. Bất chấp những thay đổi lớn về công nghệ và thị trường toàn cầu, sự nhấn mạnh của Đảng vào cơ sở công nghiệp của Trung Quốc vẫn tương tự đáng kể cho đến ngày nay. Kế hoạch 5 năm lần thứ 14 (2021–25) đưa ra các mục tiêu chi tiết về tăng trưởng kinh tế, đầu tư R&D, thành tựu bằng sáng chế và sản xuất lương thực và năng lượng – thế nhưng, tiêu dùng hộ gia đình chỉ được giới hạn trong một đoạn văn duy nhất và cũng chỉ có mặt trong một số tài liệu ít ỏi khác.

Khi ưu tiên sản lượng công nghiệp, các nhà hoạch định kinh tế của Trung Quốc cho rằng các nhà sản xuất Trung Quốc sẽ luôn có thể bán bớt nguồn cung dư thừa trên thị trường toàn cầu và thu tiền từ doanh số bán ra nước ngoài. Tuy nhiên, trên thực tế, họ đã tạo ra tình trạng đầu tư quá mức vào sản xuất trên khắp các lĩnh vực mà thị trường trong nước đã bão hòa và các chính phủ nước ngoài cảnh giác với sự thống trị của chuỗi cung ứng Trung Quốc. Vào những năm đầu của thế kỷ 21, đó là thép Trung Quốc, với công suất thặng dư của nước này cuối cùng đã vượt quá toàn bộ sản lượng thép của Đức, Nhật Bản và Hoa Kỳ cộng lại. Gần đây hơn, Trung Quốc đã đối mặt với tình trạng dư thừa tương tự về than, nhôm, kính, xi măng, thiết bị rô bốt, pin xe điện và các vật liệu khác. Các nhà máy Trung Quốc hiện có thể sản xuất gấp đôi số tấm pin mặt trời mà thế giới có thể sử dụng mỗi năm.

Đối với nền kinh tế toàn cầu, tình trạng dư thừa công suất của Trung Quốc có tác động sâu rộng. Ví dụ, với xe điện, các nhà sản xuất ô tô ở châu Âu đã phải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt từ hàng nhập khẩu giá rẻ của Trung Quốc. Các nhà máy trong lĩnh vực công nghệ mới nổi này và các lĩnh vực khác ở phương Tây có thể đóng cửa hoặc tệ hơn là không bao giờ được xây dựng. Hơn nữa, các ngành sản xuất giá trị cao có tác động kinh tế vượt xa các hoạt động của riêng chúng; chúng tạo ra việc làm trong lĩnh vực dịch vụ và đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì các nguồn nhân tài địa phương cần thiết để thúc đẩy đổi mới và đột phá công nghệ. Tại thị trường nội địa Trung Quốc, các vấn đề về năng lực sản xuất dư thừa đã gây ra cuộc chiến giá cả tàn khốc trong một số ngành công nghiệp, thậm chí chúng còn đang cản trở lợi nhuận và ngốn nhiều vốn. Theo số liệu thống kê của chính phủ, 27 phần trăm các nhà sản xuất ô tô Trung Quốc không có lãi vào tháng 5; tại một thời điểm vào năm ngoái, con số này đã lên tới 32 phần trăm. Sản xuất dư thừa trong toàn bộ nền kinh tế cũng đã làm giảm giá nói chung, khiến lạm phát gần bằng 0 và tỷ lệ dịch vụ nợ cho khu vực tư nhân phi tài chính – tỷ lệ tổng số tiền trả nợ so với thu nhập khả dụng tăng lên mức cao nhất mọi thời đại. Những xu hướng này đã làm xói mòn niềm tin của người tiêu dùng, dẫn đến tiêu dùng trong nước tiếp tục giảm và làm tăng nguy cơ Trung Quốc rơi vào bẫy giảm phát.

Khi các nhà hoạch định kinh tế của Bắc Kinh nói về tiêu dùng, họ có xu hướng định hướng tiêu dùng liên quan đến các mục tiêu công nghiệp. Trong đó, kế hoạch năm năm hiện tại nêu rõ rằng tiêu dùng nên được định hướng cụ thể vào các mặt hàng phù hợp với các ưu tiên công nghiệp của Bắc Kinh: ô tô, đồ điện tử, sản phẩm kỹ thuật số và thiết bị thông minh. Tương tự như vậy, mặc dù lĩnh vực thương mại điện tử sôi động của Trung Quốc có thể cung cấp rất nhiều lựa chọn cho người tiêu dùng, nhưng trên thực tế, các nền tảng lớn như Alibaba, Pinduoduo và Shein cạnh tranh khốc liệt để bán cùng một sản phẩm hàng hóa. Nói cách khác, ảo tưởng về sự lựa chọn của người tiêu dùng che giấu một thị trường trong nước bị định hình chủ yếu bởi các ưu tiên công nghiệp của nhà nước hơn là sở thích cá nhân.

Điều này cũng được phản ánh trong các sáng kiến ​​chính sách nhằm thúc đẩy chi tiêu của người tiêu dùng. Hãy xem xét nỗ lực gần đây của chính phủ nhằm thúc đẩy thay thế hàng hóa. Theo kế hoạch hành động vào tháng 3 năm 2024, Bộ Thương mại, cùng với các cơ quan chính phủ khác của Trung Quốc, đã cung cấp trợ cấp cho những người tiêu dùng đổi ô tô, đồ gia dụng và đồ đạc cũ lấy các mẫu xe mới. Trên lý thuyết, kế hoạch này khá giống với chương trình “tiền để đổi xe cũ” mà Washington đã đưa ra trong cuộc suy thoái năm 2008 để hỗ trợ ngành công nghiệp ô tô Hoa Kỳ. Nhưng kế hoạch này thiếu các chi tiết cụ thể và phụ thuộc vào chính quyền địa phương để thực hiện, khiến nó tỏ ra không hiệu quả; đáng chú ý là nó đã không thể nâng giá hàng hóa lâu bền. Mặc dù chính phủ có thể tác động đến động lực cung và cầu trên thị trường tiêu dùng của Trung Quốc, nhưng họ không thể buộc mọi người chi tiêu hoặc trừng phạt họ nếu họ không chi tiêu. Khi tăng trưởng thu nhập chậm lại, mọi người thường thắt chặt hầu bao, trì hoãn các khoản mua sắm lớn và cố gắng sử dụng lâu hơn với các thiết bị cũ. Nghịch lý thay, lực cản mà tình trạng dư thừa công suất gây ra cho nền kinh tế đã khiến những nỗ lực của chính phủ nhằm định hướng tiêu dùng đang khiến mọi người thậm chí còn ít chi tiêu hơn.

NHỮNG THỰC THỂ THU HỒI NỢ

Vấn đề năng lực sản xuất dư thừa của Bắc Kinh là gánh nặng đặt lên vai chính quyền địa phương trong việc phát triển cơ sở công nghiệp của Trung Quốc. Các kế hoạch công nghiệp theo hướng từ trên xuống được thiết kế để thưởng cho các thành phố và khu vực có thể mang lại mức tăng trưởng GDP cao nhất, bằng cách cung cấp các ưu đãi cho các quan chức địa phương để phân bổ vốn và trợ cấp cho các lĩnh vực ưu tiên. Như học giả Mary Gallagher đã quan sát, Bắc Kinh đã thổi bùng ngọn lửa tinh thần bằng cách sử dụng các chiến dịch xã hội như “thịnh vượng chung” – một khái niệm mà nhà lãnh đạo Trung Quốc Mao Trạch Đông lần đầu đề xuất vào năm 1953 và được Tập Cận Bình hồi sinh tại một cuộc họp của đảng vào năm 2021 – để thúc đẩy phát triển công nghiệp địa phương. Các chỉ thị và chiến dịch lập kế hoạch này gây áp lực rất lớn lên các lãnh đạo đảng địa phương để đạt được kết quả nhanh chóng, điều mà họ có thể coi là rất quan trọng để thăng tiến trong đảng. Do đó, các quan chức này có động lực mạnh mẽ để thực hiện các khoản đầu tư có đòn bẩy cao vào các lĩnh vực ưu tiên, bất kể những động thái này có khả năng sinh lời hay không.

Hiện tượng kinh tế này đã thúc đẩy các hoạt động tài trợ rủi ro của chính quyền địa phương trên khắp Trung Quốc. Để khuyến khích sáng kiến ​​của địa phương, Bắc Kinh thường không cung cấp tài chính: thay vào đó, họ trao cho các quan chức địa phương quyền quyết định để huy động vốn với sự trợ giúp của các ngân hàng khu vực để tài trợ cho các dự án trong các lĩnh vực ưu tiên, chính quyền quốc gia khi đó chỉ tự giới hạn mình trong việc chỉ định loại hình tài chính địa phương nào bị cấm. Khoảng 30 phần trăm chi tiêu cho cơ sở hạ tầng của Trung Quốc đến từ các phương tiện đầu tư này; nếu không có chúng, các quan chức địa phương đơn giản là không thể thực hiện các dự án sẽ giúp họ giành được lời khen ngợi trong đảng. Hậu quả là, cách tiếp cận này không chỉ dẫn đến tình trạng dư thừa công suất công nghiệp khổng lồ mà còn dẫn đến mức nợ của chính quyền địa phương khổng lồ. Theo một cuộc điều tra của The Wall Street Journal, vào tháng 7, tổng số tiền nợ ngoài sổ sách do các chính quyền địa phương trên khắp Trung Quốc liên đới hiện ở mức từ 7 nghìn tỷ đến 11 nghìn tỷ đô la, với nguy cơ vỡ nợ lên tới 800 tỷ đô la.

Mặc dù quy mô nợ có thể đang tệ ở thời điểm hiện tại, nhưng vấn đề này không phải là mới. Kể từ cuộc cải cách tài chính năm 1994 của Trung Quốc cho phép chính quyền địa phương giữ lại một phần doanh thu thuế mà họ thu được nhưng giảm các khoản hỗ trợ tài chính mà họ nhận được từ Bắc Kinh, các chính quyền địa phương đã phải chịu áp lực tài chính kinh niên. Họ đã phải vật lộn để hoàn thành nhiệm vụ kép của mình là thúc đẩy tăng trưởng GDP địa phương và cung cấp các dịch vụ công với nguồn lực hạn chế. Bằng cách tập trung quyền lực tài chính ở cấp quốc gia và bắt các địa phương tự lo về các dịch vụ công hay cơ sở hạ tầng, các chính sách của Bắc Kinh đã đẩy chính quyền địa phương vào cảnh nợ nần. Hơn nữa, bằng cách nhấn mạnh vào hiệu suất tăng trưởng nhanh chóng, Bắc Kinh đã thúc đẩy các quan chức địa phương ủng hộ các dự án vốn được thực hiện nhanh chóng trong các ngành công nghiệp ưu tiên của quốc gia. Để khuyến khích thêm nữa, Bắc Kinh đôi khi cung cấp hỗ trợ tài chính hạn chế cho các dự án trong các lĩnh vực ưu tiên và giúp tạo điều kiện phê duyệt để chính quyền địa phương đảm bảo nguồn tài chính. Cuối cùng, chính quyền địa phương phải chịu rủi ro tài chính và thành công hay thất bại của dự án do người đứng đầu chịu trách nhiệm, dẫn đến nhiều dự án bị thao túng.

Với sự phụ thuộc của Trung Quốc vào chính quyền địa phương, một vấn đề khác chính là việc thực hiện chính sách công nghiệp đã khiến các thành phố và khu vực trên khắp đất nước cạnh tranh trong cùng một lĩnh vực thay vì bổ sung cho nhau hoặc phát huy thế mạnh của riêng mình. Do đó, trong hơn hai thập kỷ, các tỉnh của Trung Quốc từ Tân Cương ở phía tây đến Thượng Hải ở phía đông, từ Hắc Long Giang ở phía bắc đến Hải Nam ở phía nam – đã thành lập các nhà máy trong cùng một ngành công nghiệp ưu tiên do chính phủ chỉ định, với rất ít sự phối hợp giữa các tỉnh và địa phương do các quan chức tỉnh và địa phương không muốn tỉnh mình bị vượt mặt. Điều này qua đó dẫn đến sự cạnh tranh trong nước, từ đó làm tồi tệ tình trạng dư thừa công suất và mức nợ cao, ngay cả trong các ngành công nghiệp mà Trung Quốc đã giành được vị thế thống lĩnh thị trường toàn cầu.

Hãy lấy tấm pin mặt trời làm ví dụ. Năm 2010, Hội đồng Nhà nước Trung Quốc tuyên bố rằng các ngành công nghiệp mới nổi mang tính chiến lược, bao gồm năng lượng mặt trời, sẽ chiếm 15 phần trăm GDP quốc gia vào năm 2020. Trong vòng hai năm, 31 trong số 34 tỉnh của Trung Quốc đã chỉ định ngành công nghiệp quang điện mặt trời là ưu tiên, một nửa số thành phố của Trung Quốc đã đầu tư vào ngành công nghiệp quang điện mặt trời và hơn 100 thành phố của Trung Quốc đã xây dựng các khu công nghiệp quang điện mặt trời. Gần như ngay lập tức, sản lượng quang điện của Trung Quốc đã vượt xa nhu cầu trong nước, với nguồn cung dư thừa được xuất khẩu sang châu Âu và các khu vực khác trên thế giới, nơi các chính phủ đang trợ cấp cho quyền sở hữu tấm pin mặt trời. Đến năm 2013, cả Hoa Kỳ và Liên minh châu Âu đều áp dụng thuế chống bán phá giá đối với các nhà sản xuất quang điện Trung Quốc. Đến năm 2022, công suất quang điện mặt trời lắp đặt của riêng Trung Quốc lớn hơn bất kỳ quốc gia nào khác, sau khi nước này tích cực xây dựng năng lượng tái tạo. Nhưng lưới điện của Trung Quốc không thể hỗ trợ thêm công suất năng lượng mặt trời. Với thị trường trong nước hoàn toàn bão hòa, các nhà sản xuất năng lượng mặt trời đã tiếp tục bán càng nhiều hàng hóa của ra thị trường nước ngoài. Vào tháng 8 năm 2023, Bộ Thương mại Hoa Kỳ phát hiện ra rằng các nhà sản xuất điện quang mặt trời đang vận chuyển sản phẩm đến Campuchia, Malaysia, Thái Lan và Việt Nam để thực hiện các thủ tục trung gian nhằm tránh phải trả thuế chống bán phá giá của Hoa Kỳ. Công suất sản xuất điện quang mặt trời của Trung Quốc, hiện đã gấp đôi nhu cầu toàn cầu, dự kiến ​​sẽ tăng thêm 50 phần trăm vào năm 2025. Tình trạng cung vượt cầu cực độ này đã khiến tỷ lệ sử dụng trong ngành điện mặt trời thành phẩm của Trung Quốc giảm mạnh xuống chỉ còn 23 phần trăm vào đầu năm 2024. Tuy nhiên, các nhà máy này vẫn tiếp tục hoạt động vì họ cần huy động tiền mặt để trả nợ và trang trải các chi phí cố định.

Một ví dụ khác nữa là robot công nghiệp mà Bắc Kinh bắt đầu ưu tiên vào năm 2015 như một phần của chiến lược Made in China 2025. Vào thời điểm đó, có một lý do rõ ràng để xây dựng một ngành công nghiệp robot trong nước mạnh hơn: Trung Quốc đã vượt qua Nhật Bản để trở thành nước mua robot công nghiệp lớn nhất thế giới, chiếm khoảng 20 phần trăm doanh số bán hàng trên toàn thế giới. Trên thực tế, chiến lược sản xuất này dường như đã đạt được những kết quả đáng kinh ngạc. Đến năm 2017, đã có hơn 800 công ty robot và 40 khu công nghiệp tập trung vào robot hoạt động trên ít nhất 20 tỉnh của Trung Quốc. Tuy nhiên, nỗ lực chung này không giúp ích gì nhiều cho việc thúc đẩy công nghệ robot của Trung Quốc, mặc dù đã tạo ra một cơ sở công nghiệp khổng lồ. Để đáp ứng các mục tiêu sản xuất đầy tham vọng của Bắc Kinh, các quan chức địa phương có xu hướng đầu tư vào các công nghệ tiên tiến có thể mở rộng quy mô nhanh chóng. Ngày nay, Trung Quốc có năng lực dư thừa lớn về robot cấp thấp nhưng vẫn thiếu năng lực đủ về robot tự động cấp cao đòi hỏi phải có sở hữu trí tuệ trong nước.

Năng lực dư thừa trong sản xuất cấp thấp cũng đã gây ảnh hưởng đến các ngành công nghệ khác của Trung Quốc. Ví dụ gần đây nhất là trí tuệ nhân tạo, được Bắc Kinh chỉ định là ngành công nghiệp ưu tiên trong hai kế hoạch năm năm gần đây nhất. Vào tháng 8 năm 2019, chính phủ đã kêu gọi thành lập khoảng 20 “khu vực thí điểm” AI – các công viên nghiên cứu có nhiệm vụ sử dụng dữ liệu của chính quyền địa phương để thử nghiệm thị trường. Mục đích là khai thác hai thế mạnh lớn nhất của Trung Quốc trong lĩnh vực này: khả năng xây dựng cơ sở hạ tầng vật chất nhanh chóng, qua đó hỗ trợ sự tập trung của các công ty và nhân tài AI, và không có ràng buộc về cách chính phủ thu thập và chia sẻ dữ liệu cá nhân. Trong vòng hai năm, 17 thành phố của Trung Quốc đã tạo ra các khu vực thí điểm như vậy, bất chấp sự gián đoạn của đại dịch vi-rút corona và lệnh phong tỏa trên diện rộng của chính phủ. Mỗi thành phố này cũng đã thông qua các kế hoạch hành động để thúc đẩy thêm các khoản đầu tư và chia sẻ dữ liệu.

Trên lý thuyết, việc triển khai có vẻ ấn tượng. Trung Quốc hiện chỉ đứng sau Hoa Kỳ về đầu tư vào AI. Nhưng chất lượng nghiên cứu AI thực tế, đặc biệt là trong lĩnh vực AI tạo sinh, đã bị cản trở bởi sự kiểm duyệt của chính phủ và tình trạng thiếu AI bản địa. Trên thực tế, nhiều công ty khởi nghiệp AI của Trung Quốc đã tận dụng được sự hỗ trợ mạnh mẽ của chính phủ đang sản xuất các sản phẩm về cơ bản vẫn dựa vào các mô hình và phần cứng được phát triển ở phương Tây. Tương tự như các sáng kiến ​​trong các ngành công nghiệp mới nổi khác, Bắc Kinh có nguy cơ lãng phí nguồn vốn khổng lồ vào các khoản đầu tư dư thừa, cụ thể như việc tập trung vào quy mô kinh tế hơn là tập trung vào những đổi mới để đem lại hiệu quả.

CUỘC CHẠY ĐUA CỦA CÁC CÔNG TY “THÂY MA” (CÁC CÔNG TY RƠI VÀO BẾ TẮC NHƯNG VẪN SẢN XUẤT ĐỦ DÒNG TIỀN)

Nghịch lý là ngay cả khi các mục tiêu chính sách công nghiệp của Bắc Kinh thay đổi, nhiều đặc điểm thúc đẩy tình trạng dư thừa công suất vẫn tồn tại. Bất cứ khi nào chính phủ Trung Quốc ưu tiên một lĩnh vực mới, các khoản đầu tư trùng lặp của chính quyền địa phương chắc chắn sẽ thúc đẩy sự cạnh tranh trong nước gay gắt. Các công ty và nhà máy chạy đua để sản xuất cùng một sản phẩm và hầu như không kiếm được lợi nhuận – một hiện tượng được gọi là nội quy ở Trung Quốc, hay sự thoái hóa. Thay vì cố gắng tạo sự khác biệt cho sản phẩm của mình, các công ty sẽ cố gắng đơn giản là sản xuất nhiều hơn đối thủ bằng cách mở rộng sản xuất nhanh nhất có thể và tham gia vào các cuộc chiến giá cả khốc liệt; có rất ít động lực để đạt được lợi thế cạnh tranh bằng cách cải thiện quản lý doanh nghiệp hoặc đầu tư vào R&D. Đồng thời, nhu cầu trong nước hữu hạn buộc các công ty phải xuất khẩu hàng tồn kho dư thừa ra nước ngoài, nơi mà thị trường chịu sự chi phối của địa chính trị và những biến động của thị trường toàn cầu. Suy thoái kinh tế tại các điểm đến xuất khẩu và căng thẳng thương mại gia tăng có thể cản trở tăng trưởng xuất khẩu và làm trầm trọng thêm tình trạng dư thừa công suất trong nước.

Tất cả những động lực này đều góp phần tạo nên một vòng luẩn quẩn: các công ty được hỗ trợ bởi các khoản vay ngân hàng và sự hỗ trợ của chính quyền địa phương phải sản xuất không ngừng để duy trì dòng tiền của mình. Việc ngừng sản xuất có nghĩa là không có dòng tiền, thúc đẩy các chủ nợ đòi tiền của họ. Nhưng khi các công ty sản xuất nhiều hơn, hàng tồn kho dư thừa tăng lên và giá tiêu dùng tiếp tục giảm, khiến các công ty lại mất nhiều tiền hơn và cần nhiều hỗ trợ tài chính hơn từ chính quyền địa phương và ngân hàng. Và khi các công ty lún sâu hơn vào nợ nần, họ sẽ khó trả nợ hơn, làm tăng nguy cơ trở thành “công ty thây ma”, về cơ bản là mất khả năng thanh toán nhưng vẫn có thể tạo ra đủ dòng tiền để đáp ứng các nghĩa vụ tín dụng của mình. Khi nền kinh tế Trung Quốc đình trệ, chính phủ đã giảm thuế và phí đánh vào các công ty như một cách thúc đẩy tăng trưởng nhưng điều đó đã làm giảm doanh thu của chính quyền địa phương, ngay cả khi chi tiêu cho các dịch vụ xã hội và thanh toán nợ tăng lên. Nói cách khác, mối quan hệ tài chính chặt chẽ giữa chính quyền địa phương và các công ty mà họ hỗ trợ đã tạo ra một làn sóng tăng trưởng GDP địa phương do nợ nần thúc đẩy và khiến nền kinh tế rơi vào bẫy công suất dư thừa khó đảo ngược.

Tuy nhiên, ngay cả bây giờ, Trung Quốc vẫn cho thấy sự phụ thuộc vào nợ. Tập Cận Bình đã tăng gấp đôi đầu tư cho chiến dịch của mình để Trung Quốc đạt được khả năng tự cung tự cấp về công nghệ, trong bối cảnh cạnh tranh địa chính trị gay gắt với Hoa Kỳ. Theo quan điểm của Bắc Kinh, chỉ bằng cách đầu tư nhiều hơn nữa vào các lĩnh vực chiến lược, họ mới có thể tự bảo vệ mình khỏi sự cô lập hoặc các lệnh trừng phạt kinh tế tiềm tàng của phương Tây. Do đó, chính phủ đang tập trung vào việc tài trợ cho các công nghệ sản xuất và chiến lược tiên tiến và ngăn cản các khoản đầu tư mà họ coi là gây mất tập trung, chẳng hạn như trong lĩnh vực bất động sản. Để thúc đẩy công nghệ cao bản địa, các nhà hoạch định chính sách Trung Quốc trong những năm gần đây đã huy động toàn bộ hệ thống ngân hàng và thiết lập các chương trình cho vay đặc biệt để hỗ trợ nghiên cứu và đổi mới trong các lĩnh vực ưu tiên. Kết quả là, xu hướng này đã làm gia tăng, thay vì điều chỉnh, các vấn đề cơ cấu dẫn đến tình trạng đầu tư và sản xuất dư thừa.

Ví dụ, vào năm 2021, Ngân hàng Phát triển Trung Quốc đã tạo ra một chương trình cho vay đặc biệt dành cho đổi mới khoa học và công nghệ và nghiên cứu cơ bản. Đến tháng 5 năm 2024, ngân hàng đã phân phối hơn 38 tỷ đô la tiền vay để hỗ trợ các lĩnh vực quan trọng, tiên tiến, chẳng hạn như chất bán dẫn, công nghệ năng lượng sạch, công nghệ sinh học và dược phẩm. Vào tháng 4, Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc, cùng với một số bộ của chính phủ, đã tung ra một quỹ tái cấp vốn trị giá 69 tỷ đô la – để thúc đẩy một vòng cho vay mới khổng lồ của các ngân hàng Trung Quốc cho các dự án nhằm mục đích đổi mới khoa học và công nghệ. Chỉ hai tháng sau khi chương trình ra mắt, khoảng 421 cơ sở công nghiệp trên khắp cả nước đã được chỉ định là nhà máy “sản xuất thông minh” – một nhãn hiệu không rõ ràng dành cho các nhà máy có kế hoạch tích hợp AI vào quy trình sản xuất của họ. Chương trình cũng công bố các khoản đầu tư vào hơn 10.000 xưởng kỹ thuật số cấp tỉnh và hơn 4.500 công ty tập trung vào AI.

Tuy nhiên, ngoài việc đạt được các con số đầu tư hàng đầu, chiến dịch này có rất ít tiêu chí để đo lường thành công thực tế. Bên cạnh đó, mục tiêu được nêu trong chương trình mới này là lấp đầy khoảng trống tài chính cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ lại là một sai lầm khác. Trong nhiều năm, chính sách công nghiệp của Trung Quốc có xu hướng chuyển nguồn lực cho các công ty đã trưởng thành; ngược lại, với nỗ lực to lớn để phát triển AI và các công nghệ tiên tiến khác, chính phủ đã cam kết các nguồn lực tài chính để làm phù hợp với cách tiếp cận vốn đầu tư mạo hiểm của Hoa Kỳ. Tuy nhiên, ngay cả ở đây, các nhà hoạch định kinh tế của Trung Quốc vẫn không nhận ra rằng động lực thực sự của đổi mới sáng tạo là sự gián đoạn (ý nói đến sự phá vỡ cấu trúc sản phẩm truyền thống để có thể thúc đẩy đổi mới). Để thực sự thúc đẩy loại sáng tạo này, các doanh nhân sẽ cần tiếp cận không bị cản trở vào thị trường vốn trong nước và vốn tư nhân, một tình huống sẽ làm suy yếu sự kiểm soát của Bắc Kinh đối với giới tinh hoa kinh doanh của Trung Quốc. Nếu không có khả năng gián đoạn thị trường, những khoản đầu tư khổng lồ này chỉ làm trầm trọng thêm vấn đề dư thừa năng lực sản xuất của Trung Quốc. Tiền được chuyển vào những sản phẩm có thể mở rộng quy mô nhanh nhất, buộc các nhà sản xuất phải sản xuất quá mức và sau đó tồn tại với biên lợi nhuận mỏng có thể thu được từ việc bán phá giá ra thị trường quốc tế.

THẾ KHÓ CỦA SỰ DƯ THỪA

Trong từng ngành công nghiệp, tình trạng dư thừa năng lực sản xuất kinh niên của Trung Quốc đang tạo ra một tình thế tiến thoái lưỡng nan phức tạp cho Hoa Kỳ và phương Tây. Trong những tháng gần đây, các quan chức phương Tây đã tăng cường chỉ trích các chính sách kinh tế của Bắc Kinh. Trong một bài phát biểu vào tháng 5, Lael Brainard, giám đốc Hội đồng cố vấn kinh tế của chính quyền Biden, đã cảnh báo rằng “tình trạng dư thừa năng lực sản xuất công nghiệp do chính sách thúc đẩy” của Trung Quốc – một cách nói tránh cho các hoạt động phản thị trường – đang gây tổn hại đến nền kinh tế toàn cầu. Bà cho biết, bằng cách thực thi các chính sách “làm giảm chi phí vốn, lao động và năng lượng một cách bất công” và cho phép các công ty Trung Quốc bán “bằng hoặc dưới giá thành”, Trung Quốc hiện chiếm một tỷ lệ lớn trong năng lực sản xuất toàn cầu về xe điện, pin, chất bán dẫn và các lĩnh vực khác. Hậu quả là, Bắc Kinh đang cản trở sự đổi mới và cạnh tranh trên thị trường toàn cầu, đe dọa việc làm ở Hoa Kỳ và những nơi khác, đồng thời hạn chế khả năng của Hoa Kỳ và các nước phương Tây khác trong việc xây dựng năng lực chống chịu của chuỗi cung ứng.

Tại cuộc họp ở Capri, Ý vào tháng 4, các thành viên G7 đã cảnh báo trong một tuyên bố chung rằng “các chính sách và hoạt động phi thị trường của Trung Quốc” đã dẫn đến “tình trạng dư thừa công suất có hại”. Dòng chảy ồ ạt các sản phẩm giá rẻ do Trung Quốc sản xuất đã làm gia tăng căng thẳng thương mại. Kể từ năm 2023, một số chính phủ, bao gồm cả Việt Nam và Brazil, đã tiến hành các cuộc điều tra chống bán phá giá hoặc chống trợ cấp đối với Trung Quốc. Ngoài ra, Brazil, Mexico, Thổ Nhĩ Kỳ, Hoa Kỳ và Liên hiệp Châu Âu đã áp thuế đối với nhiều mặt hàng nhập khẩu từ Trung Quốc, trong đó có xe điện.

Đối mặt với áp lực quốc tế ngày càng gia tăng, Tập Cận Bình, các tạp chí hàng đầu của đảng và phương tiện truyền thông nhà nước Trung Quốc liên tục phủ nhận rằng Trung Quốc có vấn đề dư thừa công suất. Họ cho rằng những lời chỉ trích này xuất phát từ “nỗi lo” vô căn cứ của Hoa Kỳ và lợi thế về chi phí của Trung Quốc không phải là sản phẩm của trợ cấp mà là của “những nỗ lực của các doanh nghiệp” “được định hình bởi sự cạnh tranh toàn diện trên thị trường”. Trên thực tế, các nhà ngoại giao Trung Quốc đã khẳng định rằng trong nhiều ngành công nghiệp công nghệ mới nổi, nền kinh tế toàn cầu đang phải chịu tình trạng thiếu hụt năng lực đáng kể thay vì nguồn cung dư thừa. Vào tháng 5, tờ Nhân dân Nhật báo, tờ báo chính thức của đảng, đã cáo buộc Hoa Kỳ sử dụng những tuyên bố phóng đại về tình trạng dư thừa năng lực sản xuất làm cái cớ để đưa ra các rào cản thương mại có hại nhằm kiềm chế Trung Quốc và ngăn chặn sự phát triển của các ngành công nghiệp chiến lược của Trung Quốc.

Tuy nhiên, các nhà hoạch định chính sách và nhà phân tích kinh tế Trung Quốc từ lâu đã nhận thức vấn đề này. Ngay từ tháng 12 năm 2005, Mã Khải, khi đó là giám đốc Ủy ban Cải cách và Phát triển Quốc gia Trung Quốc, đã cảnh báo rằng bảy ngành công nghiệp, bao gồm thép và ô tô, đang phải đối mặt với tình trạng dư thừa công suất nghiêm trọng. Ông cho rằng vấn đề này là do “đầu tư mù quáng và mở rộng ở mức độ công nghệ thấp”. Trong gần hai thập kỷ kể từ đó, Bắc Kinh đã ban hành hơn một chục hướng dẫn hành chính để giải quyết vấn đề này trong nhiều lĩnh vực khác nhau, nhưng thành công không đáng kể. Vào tháng 3 năm 2024, một phân tích của Lư Phong, thuộc Đại học Bắc Kinh, đã xác định được các vấn đề dư thừa công suất trong các loại xe năng lượng mới, pin xe điện và vi mạch cũ. BloombergNEF ước tính rằng sản lượng pin của Trung Quốc chỉ riêng trong năm 2023 đã bằng tổng nhu cầu toàn cầu. Với việc phương Tây tăng thêm năng lực sản xuất và các nhà sản xuất pin Trung Quốc tiếp tục mở rộng đầu tư và sản xuất, vấn đề cung vượt cầu toàn cầu có khả năng sẽ trở nên tồi tệ hơn trong những năm tới.

Lư cảnh báo rằng sự phát triển quá mức của Trung Quốc đối với các ngành công nghiệp này sẽ gây áp lực buộc các công ty Trung Quốc phải bán phá giá sản phẩm trên thị trường quốc tế và làm trầm trọng thêm mối quan hệ thương mại vốn đã căng thẳng của Trung Quốc với phương Tây. Để giải quyết vấn đề, ông đề xuất một sự kết hợp các biện pháp mà chính phủ Trung Quốc đã thử nghiệm, chẳng hạn như kích thích chi tiêu trong nước (đầu tư và tiêu dùng hộ gia đình) và những biện pháp mà nhiều nhà kinh tế đã tranh luận từ lâu nhưng Bắc Kinh vẫn chưa thực hiện, bao gồm tách chính phủ khỏi doanh nghiệp và cải cách cơ chế phân phối để mang lại lợi ích cho các hộ gia đình. Tuy nhiên, các giải pháp được đề xuất này vẫn chưa giải quyết được vấn đề phối hợp cơ bản đang gây khó khăn cho nền kinh tế Trung Quốc: sự trùng lặp các khoản đầu tư của chính quyền địa phương vào các lĩnh vực ưu tiên do nhà nước chỉ định.

LẠT MỀM BUỘC CHẶT

Cho đến nay, Hoa Kỳ đã phản ứng với thách thức dư thừa năng lực sản xuất của Trung Quốc bằng cách áp thuế quan cao đối với các sản phẩm năng lượng sạch của Trung Quốc, chẳng hạn như tấm pin mặt trời, xe điện và pin. Đồng thời, với Đạo luật Giảm lạm phát năm 2022, chính quyền Biden đã rót hàng tỷ đô la vào việc xây dựng năng lực trong nước của Hoa Kỳ cho nhiều lĩnh vực tương tự. Nhưng Hoa Kỳ nên cảnh giác với việc cố gắng cô lập Trung Quốc chỉ bằng cách xây dựng các rào cản thương mại và tăng cường cơ sở công nghiệp của riêng mình.

Bằng cách đưa ra các ưu đãi lớn cho các công ty đầu tư vào các lĩnh vực quan trọng tại Hoa Kỳ, Washington có thể lặp lại một số vấn đề tương tự đang gây ảnh hưởng đến nền kinh tế Trung Quốc: sự phụ thuộc vào đầu tư bằng nợ, phân bổ nguồn lực không hiệu quả và có khả năng là bong bóng đầu cơ trong cổ phiếu của các công ty công nghệ có thể làm mất ổn định thị trường nếu thị trường đột nhiên vỡ. Nếu mục tiêu là vượt qua Bắc Kinh, Washington nên tập trung vào những gì hệ thống của Hoa Kỳ đã làm tốt hơn: đổi mới, phá vỡ thị trường và sử dụng nhiều vốn tư nhân, với các nhà đầu tư lựa chọn những lĩnh vực triển vọng nhất để hỗ trợ và chấp nhận rủi ro cùng với phần thưởng. Bằng cách tập trung vào các chiến lược hạn chế lợi thế kinh tế của Trung Quốc, Hoa Kỳ có nguy cơ bỏ qua thế mạnh của chính mình.

Các nhà hoạch định chính sách của Hoa Kỳ cũng cần nhận ra rằng vấn đề dư thừa năng lực sản xuất của Trung Quốc trở nên trầm trọng hơn do Bắc Kinh theo đuổi mục tiêu tự cung tự cấp. Nỗ lực này, vốn đã được chú trọng trong những năm gần đây, phản ánh sự bất an của Tập Cận Bình và mong muốn giảm bớt các điểm yếu chiến lược của Trung Quốc trong bối cảnh căng thẳng kinh tế và địa chính trị gia tăng với Hoa Kỳ và phương Tây. Trên thực tế, những nỗ lực của Tập Cận Bình nhằm huy động người dân và nguồn lực của đất nước để xây dựng một bức tường công nghệ và tài chính xung quanh Trung Quốc cũng mang lại những hậu quả đáng kể. Một Trung Quốc ngày càng bị cắt đứt khỏi các thị trường phương Tây sẽ ít mất mát hơn trong một cuộc đối đầu tiềm tàng với phương Tây và do đó, ít động lực hơn để hạ nhiệt căng thẳng. Miễn là Trung Quốc còn gắn chặt với Hoa Kỳ và Châu Âu thông qua các mặt hàng có giá trị cao không dễ thay thế, phương Tây sẽ có hiệu quả hơn nhiều trong việc ngăn chặn quốc gia này thực hiện các hành động gây bất ổn. Trung Quốc và Hoa Kỳ là đối thủ cạnh tranh chiến lược, không phải là kẻ thù; tuy nhiên, khi nói đến quan hệ thương mại Hoa Kỳ-Trung Quốc, có một câu nói khôn ngoan như sau “Giữ bạn bè gần và giữ kẻ thù gần hơn”.

Chính phủ Hoa Kỳ nên ngăn cản Bắc Kinh xây dựng một bức tường chống lại lệnh trừng phạt đối với nền kinh tế Trung Quốc. Để đạt được mục đích này, chính quyền tiếp theo nên thúc đẩy các liên minh, khôi phục các thể chế đa phương bị tổn hại và tạo ra các cấu trúc phụ thuộc lẫn nhau mới khiến sự cô lập và tự cung tự cấp không chỉ không hấp dẫn đối với Trung Quốc mà còn không thể đạt được. Các nước có thể bắt đầu xây dựng nhiều chính sách hơn tại bàn đàm phán, thay vì chỉ áp đặt thuế quan. Tiến hành chiến tranh thương mại trong bối cảnh căng thẳng địa chính trị sẽ làm gia tăng sự thiếu hụt niềm tin vào nền kinh tế Trung Quốc và dẫn đến sự mất giá của đồng nhân dân tệ, điều này sẽ bù đắp một phần tác động của thuế quan.

Trung Quốc cũng có thể linh hoạt hơn trong các chính sách thương mại của mình so với vẻ bề ngoài. Kể từ khi chiến tranh thương mại Mỹ – Trung leo thang vào năm 2018, các học giả và quan chức Trung Quốc đã nghiên cứu một số lựa chọn chính sách, bao gồm áp đặt các hạn chế xuất khẩu tự nguyện, định giá lại đồng nhân dân tệ, thúc đẩy tiêu dùng trong nước, mở rộng đầu tư trực tiếp nước ngoài và đầu tư vào R&D. Các học giả Trung Quốc cũng đã xem xét mối quan hệ thương mại của Nhật Bản với Hoa Kỳ trong những năm 1980, lưu ý rằng căng thẳng thương mại đã buộc các ngành công nghiệp trưởng thành của Nhật Bản, chẳng hạn như sản xuất ô tô, phải nâng cấp và trở nên cạnh tranh hơn với các đối thủ phương Tây, một cách tiếp cận có thể mang lại bài học cho ngành công nghiệp xe điện của Trung Quốc.

Ngoài các hạn chế xuất khẩu tự nguyện, Bắc Kinh đã thử một số lựa chọn cụ thể. Nếu chính phủ cũng thực hiện các biện pháp kiểm soát xuất khẩu tự nguyện, có thể “một mũi tên trúng nhiều đích”: động thái như vậy sẽ làm giảm thương mại và thậm chí cả căng thẳng chính trị với Hoa Kỳ; động thái này cũng sẽ buộc các ngành công nghiệp phải hợp nhất và trở nên bền vững hơn; và sẽ giúp chuyển năng lực sản xuất ra nước ngoài, để phục vụ trực tiếp cho các thị trường mục tiêu.

Cho đến nay, chính quyền Biden đã thực hiện một cách tiếp cận phân chia đối với Trung Quốc, giải quyết từng vấn đề một và tập trung các cuộc đàm phán vào các chủ đề riêng lẻ. Ngược lại, chính phủ Trung Quốc thích một cách tiếp cận khác, trong đó không có vấn đề nào nằm ngoài bàn đàm phán và các nhượng bộ trong một lĩnh vực có thể được đổi lấy lợi ích trong lĩnh vực khác, ngay cả khi các vấn đề không liên quan. Do đó, mặc dù Bắc Kinh có vẻ cứng đầu trong các cuộc đàm phán riêng lẻ, nhưng họ có thể chấp nhận một thỏa thuận toàn diện hơn giải quyết nhiều khía cạnh của quan hệ Hoa Kỳ-Trung Quốc cùng một lúc. Washington nên cởi mở với khả năng có một cuộc mặc cả lớn như vậy và nếu các động cơ thay đổi, giới lãnh đạo Trung Quốc có thể thay đổi chiến thuật đột ngột, giống như khi họ đột ngột chấm dứt chính sách không COVID.

Washington cũng nên cân nhắc tận dụng các thể chế đa phương như Tổ chức Thương mại Thế giới để tạo điều kiện thuận lợi cho các cuộc đàm phán với Bắc Kinh. Ví dụ, Trung Quốc có thể đồng ý tự nguyện từ bỏ tư cách là quốc gia đang phát triển tại WTO, nơi dành cho các quốc gia được chỉ định chế độ ưu đãi trong một số tranh chấp thương mại. Trung Quốc cũng có thể ủng hộ khuôn khổ WTO đã sửa đổi để xác định tư cách nền kinh tế phi thị trường của một quốc gia – chỉ định được Hoa Kỳ và EU sử dụng để áp dụng mức thuế chống bán phá giá cao hơn đối với Trung Quốc – trên cơ sở từng ngành thay vì cho toàn bộ nền kinh tế. Những bước đi như vậy sẽ thừa nhận thành công về kinh tế của Trung Quốc, ngay cả khi họ giữ nguyên các tiêu chuẩn thương mại cao hơn của các nước công nghiệp tiên tiến.

Tập ​​Cận Bình tự coi mình là một nhà lãnh đạo có tư tưởng cải cách, gợi lên sự so sánh với Chủ tịch Mao. Điều này đã được chứng minh khi ông chính thức tiếp đón cựu Ngoại trưởng Hoa Kỳ Henry Kissinger – một trong số ít nhân vật người Mỹ được kính trọng rộng rãi ở Trung Quốc của Tập Cận Bình – vào tháng 7 năm 2023, chỉ bốn tháng trước khi Kissinger qua đời. Tập Cận Bình tin rằng với tư cách là một cường quốc, đất nước của ông không nên bị ràng buộc bởi các cuộc đàm phán hay áp lực bên ngoài, nhưng ông có thể cởi mở với các điều chỉnh tự nguyện về các vấn đề thương mại như một phần của một thỏa thuận rộng hơn. Nhiều thành viên trong giới tinh hoa và doanh nhân của Trung Quốc cảm thấy tuyệt vọng về tình trạng quan hệ với Hoa Kỳ. Họ biết rằng Trung Quốc được hưởng lợi nhiều hơn khi hội nhập vào hệ thống toàn cầu do phương Tây lãnh đạo hơn là bị loại khỏi hệ thống đó. Nhưng nếu Washington vẫn bám sát con đường hiện tại và tiếp tục hướng tới một cuộc chiến tranh thương mại, điều này vô tình có thể khiến Bắc Kinh tăng gấp đôi các chính sách công nghiệp đang gây ra tình trạng dư thừa năng lực sản xuất ngay từ đầu. Về lâu dài, điều này sẽ tệ đối với phương Tây cũng như đối với Trung Quốc.

Lưu Tông Viện là Nghiên cứu viên Maurice R. Greenberg về Nghiên cứu Trung Quốc tại Hội đồng Quan hệ Đối ngoại và là tác giả của cuốn “Sovereign Funds: How the Communist Party of China Finances Its Global Ambitions”. Lê Bá Nhật Thắng là cộng tác viên Dự án Đại Sự Ký Biển Đông. Có thể đọc bản gốc ở đây: https://www.foreignaffairs.com/china/chinas-real-economic-crisis.

Nguyên tắc hoạt động của Dự án Đại Sự Ký Biển Đông.

—————

Dự án Đại Sự Ký Biển Đông tồn tại dựa trên tài trợ của cộng đồng. Nếu quý độc giả muốn có một nguồn thông tin tri thức khách quan, đa chiều, hệ thống hoá và có chiều sâu chuyên môn, dựa trên dữ liệu (facts-based), Dự án Đại Sự Ký Biển Đông là một địa chỉ mà mọi người có thể tin tưởng. Hãy chung tay cùng với chúng tôi duy trì Dự án bằng cách tài trợ cho Dự án, và khuyến khích bạn bè, đồng nghiệp cùng tài trợ Dự án. Xem hướng dẫn tài trợ ở đây: https://dskbd.org/tai-tro-cho-du-an/. Báo cáo tài chính sẽ được tổng kết vào cuối năm. Chúng tôi xin trân trọng cảm ơn.

Leave a comment

This site uses Akismet to reduce spam. Learn how your comment data is processed.