(Trích trong Chuyên mục “Mỗi tuần một chương sách” của Bản Tin Biển Đông Số 138. Truy cập tại https://dskbd.org/2024/01/31/ban-tin-bien-dong-so-138-part-ii/)
Gregory B. Poling (2022). On Dangerous Ground – America’s Century In the South China Sea. Oxford University Press Inc.
Chương 4: The Great Alliance Debate, 1975 – 1979
Chương sách tiếp theo thảo luận về tình hình ở Biển Đông từ năm 1975 đến 1979. Qua trận chiến Hoàng Sa, Trung Quốc đã khiến Hoa Kỳ chú ý đến các tranh chấp ở Biển Đông lần đầu tiên sau hai thập kỷ. Giai đoạn từ năm 1975 cho đến cuối thập kỷ này, thay đổi địa chính trị và an ninh Châu Á đều được phản ánh ở Biển Đông. Những cuộc cạnh tranh về dầu khí, các yêu sách hàng hải mới và độ tin cậy của Hoa Kỳ với các đồng minh đã định hình sự can dự của nước này vào Biển Đông trong 40 năm tiếp theo.
Sau khi Sài Gòn thất thủ, căng thẳng leo thang giữa Sài Gòn và Manila về quyền kiểm soát quần đảo Trường Sa. Philippines đã kiểm soát Song Tử Tây từ năm 1971, coi đây như một phần mở rộng của cơ sở quân sự trên đảo Song Tử Đông. Tuy nhiên, vào đầu năm 1975, cờ của Nam Việt Nam bất ngờ được kéo lên trên Song Tử Tây, đánh dấu trường hợp đầu tiên một quốc gia chiếm đảo Trường Sa của một quốc gia khác kể từ Thế chiến thứ hai. Giữa lúc Nam Việt Nam sụp đổ trước cuộc tấn công của Hà Nội, lực lượng Bắc Việt đã nhanh chóng chiếm được Song Tử Tây và Sơn Ca vào tháng 4 năm 1975. Sau khi chiến tranh Việt Nam kết thúc, chính quyền Hà Nội đưa ra tuyên bố chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa và luôn khẳng định CHXHCN Việt Nam thừa kế hợp pháp tất cả các tuyên bố chủ quyền trước đây của Việt Nam và Pháp đối với quần đảo này. Năm 1975 đánh dấu sự suy thoái nghiêm trọng của an ninh tại Biển Đông. Đến thời điểm đó, hiện trạng giữa Philippines, Nam Việt Nam và Đài Loan vẫn căng thẳng nhưng có thể kiểm soát được. Dù vậy, sự thay đổi này khiến Philippines, bên tranh chấp có quân đội yếu nhất, thảo luận với Washington về việc liệu liên minh của họ có áp dụng hay không và áp dụng như thế nào trong trường hợp xảy ra một cuộc tấn công ở Biển Đông. Phía Hoa Kỳ cho rằng Hiệp ước Căn cứ Quân sự (MDT) không áp dụng đối với Trường Sa. Chính sự mơ hồ xung quanh ngôn ngữ của hiệp ước, đặc biệt liên quan đến các vùng lãnh thổ tranh chấp, đã làm dấy lên mối lo ngại về mức độ cam kết của Hoa Kỳ đối với Philippines.
Tác giả đề cập đến các hoạt động dầu khí ở khu vực tranh chấp Biển Đông. Bãi Cỏ Rong nơi mà cả Philippines, Trung Quốc, Đài Loan và Việt Nam đều tuyên bố chủ quyền các đảo gần đó và được hưởng thềm lục địa. Kể từ năm 1968, chính quyền các khu vực đã hy vọng khai thác dầu ở Biển Đông. Philippines đã cấp giấy phép thăm dò cho một số công ty nước ngoài và địa phương để thăm dò Bãi Cỏ Rong vào đầu những năm 1970. Năm 1975, các công ty này thành lập một tập đoàn do Tập đoàn Salen của Thụy Điển đứng đầu và tăng cường khảo sát xung quanh khu vực này. Philippines cũng tăng cường tuần tra trên không xung quanh đảo Ba Bình và các tiền đồn của Việt Nam để chuẩn bị cho hoạt động khoan. Giữa tháng 5, quân đội Việt Nam trên đảo Song Tử Tây đã bắn vào một máy bay trinh sát của Philippines, làm dấy lên lo ngại nghiêm trọng ở Washington rằng tình hình có thể vượt khỏi tầm kiểm soát nhưng ngoài sự cố này, các hoạt động phản đối của các bên yêu sách chỉ thực hiện ở khía cạnh ngoại giao. Các cuộc đàm phán về Thỏa thuận căn cứ quân sự giữa Philippines – Hoa Kỳ vẫn tiếp tục, nhưng Manila bắt đầu gắn muốn làm rõ nghĩa vụ phòng thủ của Hoa Kỳ ở Trường Sa và Bãi Cỏ Rong. Washington cuối cùng đã đồng ý rằng việc tiếp tục căn cứ sẽ không thể thực hiện được nếu không giải quyết được vấn đề MDT nhưng giai đoạn này cả hai bên chưa đạt được kết quả cuối cùng.
Sự thay đổi diễn ra vào năm 1977, khi Jimmy Carter nhậm chức Tổng thống Hoa Kỳ, và ngay sau đó, Tổng thống Philippines đã bày tỏ ý định yêu cầu chính quyền mới có cam kết mạnh mẽ hơn về các thỏa thuận quốc phòng. Bất chấp những bất đồng kéo dài, Hoa Kỳ dần có xu hướng bảo vệ các khu vực của Philippines khỏi các cuộc tấn công. Marcos muốn làm rõ tình trạng của Biển Đông và đảm bảo phản ứng nhanh chóng trong trường hợp xảy ra một cuộc tấn công với những thỏa thuận tài chính. Dù vậy, điều này không thành hiện thực do chính sách của Carter về chuyển giao vũ khí và hỗ trợ an ninh. Khi căng thẳng về Bãi Cỏ Rong lắng xuống, hoạt động thăm dò dầu mỏ vẫn tiếp tục mà không có sự cố lớn nào, mặc dù có những trở ngại và sự thay đổi lợi ích giữa các thành viên tập đoàn. Trong khi đó, các yêu sách lãnh thổ và hoạt động chiếm đóng ngày càng gia tăng ở Quần đảo Trường Sa, liên quan đến Philippines, Việt Nam và Malaysia. Trong khi Malaysia thực hiện các hoạt động khảo sát, Việt Nam và Philippines mở rộng sự hiện diện thông qua việc chiếm đóng và đưa ra tuyên bố, như Việt Nam chiếm đóng An Bang còn Bình Nguyên và Loại Ta thuộc quyền kiểm soát của Philippines, dẫn đến sự phức tạp của tranh chấp chủ quyền trong khu vực. Bên cạnh đó, các bên cũng thực hiện các biện pháp ngoại giao như Philippines đưa ra thỏa thuận với Trung Quốc và Việt Nam để đàm phán hòa bình các tranh chấp, Hoa Kỳ chính thức công nhận Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, bãi bỏ Hiệp ước phòng thủ chung với Đài Loan và thông qua Đạo luật Quan hệ Đài Loan để duy trì mối quan hệ chính trị và kinh tế với Đài Loan.
Các cuộc đàm phán giữa chính phủ Hoa Kỳ và Philippines về Thỏa thuận căn cứ quân sự được nối lại vào năm 1978 và đạt được kết quả. Theo đó, Hoa Kỳ cam kết hỗ trợ an ninh trị giá 500 triệu USD cho Philippines và việc áp dụng MDT ngầm bao gồm cả Biển Đông. Tác giả đề cập, tình hình bất ổn trong khu vực như xung đột Campuchia – Việt Nam, Trung Quốc – Việt Nam đã thúc đẩy đổi mới hợp tác Mỹ – Philippines. Đến cuối năm 1979, tranh chấp lãnh thổ ở Biển Đông đã đạt đến trạng thái mới. Cụ thể, Việt Nam chuyển trọng tâm vào khủng hoảng với Campuchia, còn Trung Quốc không có khả năng cũng như không có mong muốn khẳng định các yêu sách của mình ngoài quần đảo Hoàng Sa. Với Hoa Kỳ, Washington cam kết trung lập trong hầu hết các vấn đề lãnh thổ nhưng nước này sẽ đáp trả nếu lực lượng Philippines bị tấn công vô cớ trên biển. Trong giai đoạn sau đó, các tranh chấp lãnh thổ đảo dần được ổn định nhưng các quốc gia bắt đầu đưa ra các yêu sách đối với vùng nước và đáy biển theo các quy định mới, mở ra một loạt tranh chấp mới lại nổi lên trên biển.
Xem nội dung chương sách tại đây. Đặt mua sách ở đây.
Nguyên tắc hoạt động của Dự án Đại Sự Ký Biển Đông.
—————
Dự án Đại Sự Ký Biển Đông tồn tại dựa trên tài trợ của cộng đồng. Nếu quý độc giả muốn có một nguồn thông tin tri thức khách quan, đa chiều, hệ thống hoá và có chiều sâu chuyên môn, dựa trên dữ liệu (facts-based), Dự án Đại Sự Ký Biển Đông là một địa chỉ mà mọi người có thể tin tưởng. Hãy chung tay cùng với chúng tôi duy trì Dự án bằng cách tài trợ cho Dự án, và khuyến khích bạn bè, đồng nghiệp cùng tài trợ Dự án. Xem hướng dẫn tài trợ ở đây: https://dskbd.org/tai-tro-cho-du-an/. Báo cáo tài chính sẽ được tổng kết vào cuối năm. Chúng tôi xin trân trọng cảm ơn.
