Tác giả: Yuval Noah Harari | The Economist ngày 9/2/2022
Bản dịch của RFI Tiếng Việt
(Có bổ sung hiệu đính của thành viên Dự án Đại Sự Ký Biển Đông)

Thành tựu chính trị lớn nhất của nhân loại trong bảy thập niên qua là sự suy tàn của chiến tranh. Thành tựu đó hiện đang gặp nguy hiểm.
Trong tâm điểm của cuộc khủng hoảng Ukraine, có một câu hỏi căn bản liên quan đến bản chất của lịch sử và bản chất của nhân loại : Thay đổi là có thể hay không thể? Con người có thể thay đổi được ứng xử của mình? hay lịch sử rút cục chỉ là sự lặp lại không ngừng, với nhân loại mãi mãi bị phê phán bởi lặp lại các bi kịch trong quá khứ mà không làm gì để thay đổi cả ngoài những trang trí bên ngoài?
Có một trường phái tư tưởng phủ nhận triệt để khả năng thay đổi của con người. Theo trường phái này, thế giới tuân theo Luật Rừng, nơi các loài mạnh ăn thịt các loài yếu, và sức mạnh vũ trang là phương tiện duy nhất ngăn cản một quốc gia này nuốt chửng một quốc gia khác. Lịch sử đã là như vậy, và sẽ luôn luôn tiếp tục là như vậy. Những ai không tin vào Luật Rừng sẽ không chì sống trong ảo ảnh, mà còn khiến sự tồn tại của chính mình lâm nguy. Họ sẽ không thể sống sót.
Một trường phái tư tưởng khác khẳng định rằng cái gọi là luật cạnh tranh sinh tồn đúng là rất phổ biến, nhưng lại không phải là một quy luật tự nhiên. Chính con người đã tạo ra nó, và như vậy con người có thể thay đổi nó. Ngược với những ý tưởng sai lầm đang tồn tại, theo các dấu hiệu khảo cổ học xưa nhất không thể phản bác, hoạt động chiến tranh có tổ chức chỉ xảy ra vào khoảng 13.000 năm trước Công nguyên. Và ngay cả sau niên đại này, trong nhiều khoảng thời gian dài, khó tìm thấy các dấu vết khảo cổ về chiến tranh. Ngược hẳn với “trọng lực” (một quy luật tự nhiên), chiến tranh không phải là một sức mạnh vốn có của thiên nhiên. Sự tồn tại của chiến tranh, mức độ căng thẳng của chiến tranh phụ thuộc vào các yếu tố công nghệ, kinh tế và văn hóa ngầm ẩn. Và khi các yếu tố này thay đổi thì chiến tranh cũng thay đổi.
Có nhiều bằng chứng cho sự thay đổi này xung quanh chúng ta. Trong vòng một vài thế hệ, vũ khí hạt nhân đã biến chiến tranh giữa các siêu cường thành một nguy cơ tự sát tập thể điên rồ. Đây là điều buộc các quốc gia hùng mạnh nhất hành tinh phải tìm ra các phương tiện ít bạo lực hơn để giải quyết các xung đột. Nếu như các cuộc chiến tranh giữa các đại cường, như kiểu Thế chiến Hai hay cuộc chiến tranh Punic lần thứ hai (xảy ra trong khoảng thời gian từ 218 đến 201 trước Công Nguyên giữa Carthage và đế quốc La Mã tại Bắc Phi và Nam Âu – người dịch bổ sung) đã từng là một đặc điểm nổi trội trong phần lớn lịch sử, thì 70 năm gần đây chưa từng chứng kiến bất cứ một xung đột trực tiếp nào giữa các đại cường.
Trong cùng một giai đoạn, nền kinh tế thế giới, trước đây vốn dựa vào các nguồn tài nguyên, nay đã chuyển hướng sang dựa vào tri thức. Trước kia các nguồn tài nguyên chính là các tài sản vật chất, như mỏ vàng, đồng ruộng, các giếng dầu, thì giờ đây nguồn tài nguyên chính là tri thức. Mà, nếu như có thể dùng vũ lực để chiếm lĩnh các mỏ dầu, thì lại không thể làm như vậy với tri thức. Chính vì vậy, chinh phục lãnh thổ giờ đây ít mang lại lợi ích hơn.
Cuối cùng, đã có một sự thay đổi có tính kiến tạo diễn ra trong nền văn hoá toàn cầu. Trong lịch sử, một bộ phận lớn của giới tinh hoa – ví dụ như các thủ lĩnh của người Hun, người Viking, hay giới quý tộc La Mã – đã từng cho chiến tranh là điều tốt. Từ Sargon Đại Đế vùng Lưỡng Hà đến nhà độc tài Ý Benito Mussolini, các nhà lãnh đạo thường tìm kiếm danh tiếng bất tử thông qua các cuộc chinh phạt (và các nghệ sĩ như Homer và Shakespeare vui vẻ tuân theo những điều tưởng tượng đó). Một số thành phần tinh hoa khác, như Giáo hội Thiên Chúa giáo, từng coi chiến tranh là cái ác không thể tránh được.
Tuy nhiên, trong vòng một vài thế hệ trở lại đây, lần đầu tiên thế giới được lãnh đạo bởi một bộ phận giới tinh hoa coi chiến tranh là một cái ác có thể tránh được. Cả các Tổng thống Mỹ George W. Bush và Donald Trump, chưa kể đến những người như Thủ tướng Đức Merkel và Thủ tướng New Zealand Ardern, đều là những chính trị gia khác hẳn với Attila Rợ Hung hay Alaric đệ nhất, vua của tộc Goth (tức các thủ lĩnh quân sự lừng danh Châu Âu thế kỷ V – người dịch). Các chính trị gia đương đại (như Merkel nay Ardern) nhìn chung lên nắm quyền nhờ việc nuôi dưỡng niềm tin trong công chúng vào ước mơ có được các cải cách trong nước hơn là tiến hành các cuộc chinh phạt bên ngoài. Trong lúc đó, những cây đại thụ trong các lĩnh vực nghệ thuật và tư tưởng – từ danh họa Pablo Picasso đến nhà điện ảnh bậc thầy Stanley Kubrick – nổi tiếng đặc biệt là do đã mô tả sự ghê rợn phi lý của chiến tranh, hơn là tôn vinh những người gây ra chiến tranh.
Kết quả của tất cả những thay đổi này là hầu hết các chính phủ không còn coi chiến tranh xâm lược là một công cụ có thể dùng đến để thúc đẩy lợi ích, và hầu hết các quốc gia ngừng ảo tưởng về việc chinh phục và thôn tính các nước láng giềng. Sẽ là sai lầm khi tin rằng chỉ cần lực lượng quân sự là có thể ngăn cản Brazil chinh phục Uruguay, hoặc Tây Ban Nha xâm lược Maroc.
Sự suy tàn của chiến tranh được thể hiện rõ trong nhiều số liệu thống kê. Từ năm 1945, tương đối hiếm có việc các biên giới quốc tế bị vẽ lại do một cuộc xâm lược, và không có một quốc gia nào bị xóa sổ khỏi bản đồ do một cuộc xâm lặng từ bên ngoài. Dĩ nhiên là có nhiều loại xung đột khác, như nội chiến và nổi dậy. Tuy nhiên, ngay cả khi tính tổng cộng tất cả các nạn nhân của những cuộc chiến như vậy trong 20 năm đầu của thế kỷ XXI, bạo lực chiến tranh khiến ít người chết hơn là nạn tự sát, tai nạn giao thông hay bệnh tật liên quan đến béo phì. Giờ đây thuốc súng khiến ít người chết hơn là đường.
Tính chính xác của các số liệu này vẫn còn là đối tượng tranh luận trong giới học giả, nhưng điều quan trọng là phải nhìn xa hơn các phép toán. Sự suy tàn của chiến tranh không chỉ là câu chuyện thống kê mà cũng là một hiện tượng tâm lý. Đặc điểm quan trọng nhất của nó là sự thay đổi lớn về ý nghĩa của thuật ngữ “hòa bình”. Trong suốt chiều dài lịch sử nhân loại, “hoà bình” chỉ có nghĩa là “chiến tranh tạm thời vắng bóng”. Năm 1913, khi mọi người nói rằng đã có “hòa bình” giữa Pháp và Đức, thì điều đó có chỉ nghĩa là hai quân đội Pháp và Đức đang trong trạng thái không đụng độ trực tiếp, nhưng tất cả đều hiểu rằng chiến tranh có thể bùng nổ bất cứ lúc nào.
Trong những thập kỷ gần đây, nghĩa của “hòa bình” đã trở thành “sự bất khả thi của chiến tranh”. Đối với nhiều quốc gia, việc bị xâm lược và chinh phục bởi các nước láng giềng đã trở nên gần như không thể tưởng tượng nổi. Tôi sống ở Trung Đông, vì vậy tôi biết rõ rằng có những ngoại lệ cho những xu hướng này. Nhưng việc xác định các xu hướng cũng quan trọng không kém việc chỉ ra các trường hợp ngoại lệ.
“Nền hòa bình mới” không còn là một may rủi về mặt thống kê hay của ảo tưởng của giới hippy. Nó đã được phản ánh rõ ràng nhất trong các ngân sách được tính toán một cách lạnh lùng. Trong những thập kỷ gần đây, các chính phủ trên toàn thế giới đã cảm thấy đủ an toàn để chỉ dành trung bình 6,5% ngân sách cho vũ trang, và chi nhiều hơn hẳn cho giáo dục, y tế và phúc lợi xã hội.
Chúng ta có xu hướng coi đó là điều hiển nhiên, nhưng thực ra đây là một điều mới lạ đáng kinh ngạc trong lịch sử loài người. Trong hàng nghìn năm, chi tiêu quân sự cho đến nay là khoản mục lớn nhất trong ngân sách của các hoàng tử, các đại hãn, các quốc vương và hoàng đế. Họ hầu như không chi một xu nào cho giáo dục hay chăm sóc y tế cho đại chúng.
Sự suy tàn của chiến tranh không phải là kết quả của phép màu thần thánh hay từ sự thay đổi các quy luật tự nhiên. Nó là kết quả của việc con người đã có những lựa chọn tốt hơn. Nó được cho là thành tựu chính trị và đạo đức lớn nhất của nền văn minh hiện đại. Thật không may, bởi nếu điều đó được sinh ra bởi sự lựa chọn của con người thì cũng có nghĩa là nó có thể bị đảo ngược.
Công nghệ, kinh tế và văn hóa tiếp tục thay đổi. Sự trỗi dậy của vũ khí mạng, nền kinh tế do AI điều khiển và các việc tái quân sự hoá nền văn hoá có thể mở ra một kỷ nguyên chiến tranh mới, tồi tệ hơn bất cứ điều gì chúng ta từng thấy trước đây. Để tận hưởng hòa bình, chúng ta sẽ cần hầu như tất cả mọi người có những lựa chọn đúng đắn. Ngược lại, chỉ cần một bên có lựa chọn không tốt có thể sẽ dẫn đến chiến tranh.
Đây là lý do tại sao mối đe dọa xâm lược Ukraine của Nga khiến tất cả cư dân trên hành tinh này lo lắng. Nếu việc các quốc gia hùng mạnh có thể săn lùng các nước láng giềng yếu hơn một lần nữa lại trở thành quy chuẩn, các cảm xúc và hành vi trên toàn thế giới sẽ thay đổi. Hệ quả đầu tiên và rõ ràng nhất của sự quay trở lại của Luật Rừng sẽ là sự gia tăng mạnh chi phí quân sự với chi phí của tất cả những thứ khác. Số tiền đáng lẽ dành cho giáo viên, y tá và nhân viên xã hội sẽ được đầu tư vào xe tăng, tên lửa và vũ khí mạng.
Việc quay trở lại của luật rừng cũng sẽ làm suy yếu hợp tác toàn cầu trong các vấn đề như ngăn chặn biến đổi khí hậu thảm khốc hay kiểm soát các công nghệ tiềm ẩn nguy hiểm như trí tuệ nhân tạo và kỹ thuật di truyền. Thật không dễ dàng để làm việc cùng với các quốc gia đang chuẩn bị xóa sổ nước bạn khỏi bản đồ. Và khi biến đổi khí hậu và cuộc chạy đua trí tuệ nhân tạo tăng tốc, mối đe dọa xung đột vũ trang cũng sẽ chỉ gia tăng hơn nữa, giam hãm chúng ta trong một vòng luẩn quẩn có thể dẫn nhân loại chúng ta đến chỗ diệt vong.
Hướng đi của lịch sử
Nếu bạn tin rằng thay đổi lịch sử là không thể, và nhân loại chưa bao giờ rời khỏi rừng rậm và sẽ không bao giờ rời khỏi rừng rậm, thì lựa chọn duy nhất còn lại là đóng vai kẻ săn mồi hay con mồi. Với sự lựa chọn như vậy, hầu hết các nhà lãnh đạo muốn đi vào lịch sử như những kẻ săn mồi đỉnh cao, và thêm tên của họ vào danh sách thê thảm những kẻ chinh phục nghiệt ngã mà những học sinh bất hạnh phải ghi nhớ để qua được các kỳ thi môn lịch sử.
Nhưng có lẽ thay đổi là có thể? Có thể luật rừng là một sự lựa chọn hơn là một tất yếu? Nếu vậy, bất kỳ nhà lãnh đạo nào lựa chọn xâm lược quốc gia hàng xóm sẽ có một vị trí đặc biệt trong ký ức nhân loại, tệ hơn nhiều so với Tamerlane (thủ lĩnh quân sự nổi tiếng tàn bạo (1336 – 1405), người sáng lập đế quốc Timurid ở vùng Ba Tư và Trung Á – người dịch bổ sung). Một kẻ như vậy sẽ đi vào lịch sử với tư cách là người đã phá bỏ thành tựu vĩ đại nhất của chúng ta – kéo chúng ta trở lại rừng ngay khi chúng ta nghĩ chúng ta đã thoát khỏi nó.
Tôi không biết điều gì sẽ xảy ra ở Ukraine. Nhưng với tư cách là một nhà sử học, tôi tin vào khả năng thay đổi. Tôi không nghĩ đây là niềm tin ngây thơ, mà đó là chủ nghĩa hiện thực. Điều duy nhất bất biến trong lịch sử loài người là sự thay đổi. Và đó là điều mà có lẽ chúng ta có thể học hỏi từ người Ukraine. Trong nhiều thế hệ, người Ukraina chỉ biết đến chế độ chuyên chế và bạo lực. Họ đã phải chịu đựng hai thế kỷ dưới chế độ chuyên chế Sa hoàng (cuối cùng đã sụp đổ trong cơn đại hồng thủy của Thế chiến thứ nhất). Nỗ lực giành độc lập ngắn ngủi của dân Ukraina đã nhanh chóng bị đè bẹp bởi Hồng Quân, lực lượng đã khôi phục quyền thống trị của đế chế Nga. Sau đó, người Ukraina đã trải qua nạn đói khủng khiếp do chính sách “Holodomor” (1932 – 1933) (chính sách gây chết đói hàng loạt), sự khủng bố của chế độ Stalin, sự chiếm đóng của Đức Quốc xã và nhiều thập niên bị đè nén dưới chế độ toàn trị cộng sản. Khi Liên Xô sụp đổ, đã có mọi lý do để tin rằng người Ukraine sẽ một lần nữa đi theo con đường của chế độ chuyên chế tàn bạo, vì đó là những gì duy nhất mà họ đã biết được.
Nhưng họ đã có một sự lựa chọn khác. Bất chấp lịch sử, bất chấp đói nghèo cùng cực và bất chấp những trở ngại dường như không thể vượt qua, người Ukraine đã thiết lập được một nền dân chủ. Ở Ukraine, không giống như ở Nga và Belarus, các ứng cử viên đối lập đã liên tục thay thế những người đương nhiệm. Đối mặt với mối đe dọa của một chế độ ngả sang chuyên quyền vào năm 2004 và 2013, người Ukraine đã hai lần nổi dậy để bảo vệ tự do. Nền dân chủ với dân Ukraina là hoàn toàn mới mẻ. Cũng giống như “nền hòa bình mới” (của nhân loại từ hơn nửa thế kỷ nay – người dịch). Cả hai đều mong manh và có thể sẽ không tồn tại lâu. Nhưng cả hai đều có thể xảy ra, và có thể bắt rễ sâu. Những gì cũ hiện nay trước đây đã từng là cái mới. Tất cả đều phụ thuộc vào những lựa chọn của con người.
Yuval Noah Harari (sinh năm 1976) là giáo sư Khoa Lịch sử tại Đại học Hebrew Jerusalem. Ông là tác giả của ba cuốn sách bán chạy hàng đầu thế giới : Sapiens: Lược sử loài người (2014), Homo Deus: Lược sử tương lai (2016) và 21 bài học cho thế kỷ 21 (2018). Bài viết được đăng tại https://www.economist.com/by-invitation/2022/02/09/yuval-noah-harari-argues-that-whats-at-stake-in-ukraine-is-the-direction-of-human-history.
Bản tiếng Việt ở trên là bản hiệu đính lại bản dịch ban đầu tại https://www.rfi.fr/vi/quốc-tế/20220213-harari-huong-di-cua-nhan-loai-dang-duoc-quyet-dinh-tai-ukraina dựa trên bản gốc tiếng Anh.
—————
Dự án Đại Sự Ký Biển Đông đang nỗ lực duy trì tri thức mở, độc lập và phi chính trị. Mỗi sản phẩm của Dự án đều được thực hiện với thái độ nghiêm túc, khoa học dù trong giới hạn thời gian cá nhân của các thành viên và cộng tác viên Dự án. Nếu độc giả thấy sản phẩm của Dự án Đại Sự Ký Biển Đông hữu ích, hãy chung tay với Dự án để Dự án có thể duy trì hoạt động. Xem hướng dẫn tài trợ ở đây: https://dskbd.org/tai-tro-cho-du-an/. Báo cáo tài chính sẽ được tổng kết vào cuối năm. Chúng tôi xin trân trọng cảm ơn.