Chính Sách Đối Ngoại Không Liên Kết Của Việt Nam Giúp Củng Cố Vị Thế Trên Biển Đông Như Thế Nào

Tác giả: Khang Vũ | The Diplomat ngày 7 tháng 10 năm 2025

Biên dịch: Lê Bá Nhật Thắng | Hiệu đính: Khang Vũ | Dự án Đại Sự Ký Biển Đông

Toàn cảnh Bãi Thuyền Chài ngày 1 tháng 8 năm 2025. Ảnh: CSIS/AMTI

Việc Việt Nam mở rộng các tiền đồn ở quần đảo Trường Sa hầu như không vấp phải sự phản đối đáng kể nào từ các bên có tuyên bố chủ quyền khác, bao gồm cả Trung Quốc.

Việt Nam đang khẳng định chủ quyền hàng hải của mình trên Biển Đông ở một quy mô chưa từng có. Tháng 8 vừa qua, Sáng kiến Minh bạch Hàng hải Châu Á (AMTI) báo cáo rằng Việt Nam đã bồi đắp khoảng 70% (3.319 mẫu Anh) diện tích đất bồi đắp ở Trường Sa so với Trung Quốc (4.650 mẫu Anh). AMTI cũng dự báo rằng các hoạt động cải tạo của Hà Nội sẽ sớm bắt kịp, thậm chí vượt qua nỗ lực xây đảo của Trung Quốc. Việt Nam chỉ mới bắt đầu chiến dịch cải tạo quy mô lớn này từ năm 2021, chủ yếu tập trung xây dựng các cảng và đường băng mới. Những nỗ lực cải tạo gia tăng này diễn ra sau khi Hà Nội hoàn tất chương trình hiện đại hóa hải quân trong những năm 2000 và 2010, với việc mua sắm sáu tàu ngầm lớp Kilo của Nga, bốn khinh hạm Gepard-3.9 và 36 máy bay chiến đấu đa năng Sukhoi Su-30MK2.

Hiện nay, Việt Nam muốn kết hợp việc nâng cấp trang bị quân sự với cải thiện cơ sở hạ tầng hàng hải nhằm tăng khả năng tuần tra của lực lượng hải quân. Thay vì phải quay về đất liền để tiếp nhiên liệu và tiếp tế, các tàu và máy bay có thể mở rộng phạm vi hoạt động từ các đảo. Việt Nam cũng có thể giải quyết vấn đề hậu cần nhờ hệ thống đường băng máy bay vận tải, từ đó có thể chuyển hàng thiết yếu từ đất liền ra đảo chỉ trong vài giờ, thay vì vài ngày nếu đi bằng tàu biển. Nói cách khác, một lực lượng hải quân hiện đại sẽ không thể hoàn thành nhiệm vụ bảo vệ và thực thi pháp luật trên biển nếu thiếu các đảo được nâng cấp; ngược lại, các đảo hiện đại mà không có lực lượng hải quân mạnh mẽ sẽ bị cô lập với đất liền.

Mục tiêu đằng sau các hoạt động cải tạo đảo của Việt Nam là rõ ràng: duy trì và tăng cường hiện diện hàng hải trong khi các bên khác cũng đang mở rộng ảnh hưởng. Tuy nhiên, điều đáng chú ý là không có bên tranh chấp nào mạnh mẽ phản đối hoặc hành động thực chất để ngăn chặn các hoạt động này. Chẳng hạn, Trung Quốc vốn thường có cách tiếp cận cứng rắn với Philippines, lại không dùng biện pháp mạnh với Việt Nam, như cắt tiếp tế ra các điểm đóng quân. Bắc Kinh chỉ bày tỏ một số quan ngại, nhưng thậm chí không nêu đích danh Việt Nam. Nhìn chung, Trung Quốc và Việt Nam vẫn duy trì cam kết hợp tác giải quyết tranh chấp Biển Đông trên tinh thần “không hành động làm phức tạp tình hình hoặc mở rộng tranh chấp.”

Không chỉ Trung Quốc, mà ngay cả các nước như Hoa Kỳ và Philippines cũng dường như làm ngơ trước các hoạt động của Việt Nam. Khi Trung Quốc mở rộng đảo trong thập niên 2010, Washington liên tục bày tỏ lo ngại rằng hành động này có thể gây bất ổn khu vực, đồng thời tăng cường quan hệ quốc phòng với Nhật Bản và Philippines. Kể từ năm 2021, chính phủ Mỹ chưa đưa ra bất kỳ tuyên bố nào chỉ trích Việt Nam về hành vi ở Biển Đông. Trái lại, Washington còn ủng hộ quá trình hiện đại hóa hải quân của Việt Nam bằng việc bàn giao tàu tuần duyên thứ ba nhân dịp kỷ niệm 30 năm bình thường hóa quan hệ song phương. Trong các tuyên bố chung, lãnh đạo hai nước nhấn mạnh đóng góp của Việt Nam đối với hòa bình khu vực và ủng hộ việc tăng cường năng lực hàng hải cho Việt Nam trong bối cảnh Hà Nội đẩy nhanh hoạt động cải tạo đảo.

Philippines cũng giữ im lặng trước các hoạt động của Việt Nam. Giống như đồng minh Mỹ, Philippines luôn lên án các hoạt động xây dựng đảo của Trung Quốc. Tuy nhiên, Manila lại sẵn sàng thúc đẩy hợp tác hàng hải với Hà Nội. Năm ngoái, khi Tổng thống Philippines Ferdinand Marcos Jr. thăm Việt Nam, hai nước đã nhất trí tăng cường quan hệ đối tác chiến lược thông qua việc đẩy mạnh trao đổi giữa lực lượng cảnh sát biển. Hai bên cũng cam kết hợp tác nhằm ngăn ngừa và xử lý sự cố tại các vùng biển tranh chấp. Các quốc gia ASEAN khác cũng không lên án hoạt động cải tạo đảo của Hà Nội. Thay vào đó, Việt Nam đã ký thỏa thuận phân định ranh giới biển với Indonesia vào năm 2022, được phê chuẩn năm 2025. Các bên có tuyên bố chủ quyền khác tại Trường Sa như Brunei và Malaysia cũng tiếp tục thúc đẩy hợp tác hàng hải với Việt Nam. Năm ngoái, Việt Nam nâng cấp quan hệ với Malaysia lên Đối tác Chiến lược Toàn diện. Ngay cả Đài Loan cũng không chỉ trích việc cải tạo đảo của Việt Nam, trong khi đó đầu tư của Đài Loan vào ngành công nghệ cao của Việt Nam đã tăng gấp bốn lần, đạt 2,2 tỷ USD năm 2023 so với năm 2022.

Thành công của Việt Nam trong việc giảm thiểu phản ứng quốc tế trước các hoạt động xây dựng đảo phần lớn bắt nguồn từ chính sách đối ngoại không liên kết, với các nguyên tắc gồm: không tham gia liên minh quân sự, không liên kết nước này chống nước kia, không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự, không cho sử dụng lãnh thổ Việt Nam để chống lại nước khác, và không sử dụng hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế. Bằng việc từ bỏ sử dụng vũ lực, Hà Nội đã trấn an các nước láng giềng và cả Mỹ rằng các đảo mở rộng của Việt Nam không nhằm phục vụ cho mục tiêu tấn công hoặc chiếm đóng các đảo thuộc quyền kiểm soát của các bên khác. Do đó, hành động của Việt Nam dù mở rộng diện tích đến mức nào vẫn được nhìn nhận là mang tính phòng thủ. Theo logic tương tự, việc hiện đại hóa hải quân của Việt Nam cũng được xem là nhằm phòng thủ, khác với trường hợp của Trung Quốc. Mỹ và Philippines lên án hành động của Trung Quốc trên Biển Đông vì lo ngại Bắc Kinh có thể tấn công và chiếm thêm các điểm đóng quân khác, như vụ Trung Quốc chiếm bãi cạn Scarborough năm 2012, hoặc cản trở tuyến thương mại quốc tế.

Quan trọng hơn, cả Trung Quốc và Mỹ đều tin rằng Hà Nội sẽ không cho phép bất kỳ cường quốc nào sử dụng các đảo được cải tạo của mình để mở rộng ảnh hưởng, do chính sách nhất quán của Việt Nam là không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự trên lãnh thổ Việt Nam. Trung Quốc phản đối nỗ lực tiếp tế của Philippines cho các tiền đồn vì lo ngại liên minh Mỹ – Philippines, và khả năng Washington có thể lợi dụng tranh chấp giữa Bắc Kinh và Manila để gây bất ổn khu vực lân cận của Trung Quốc.

Việt Nam tránh được sức ép từ Trung Quốc vì các đảo được mở rộng không bị Mỹ sử dụng để gây tổn hại cho Bắc Kinh. Giả định rằng Việt Nam liên minh với Trung Quốc, thì Mỹ và Philippines có thể sẽ lên án Hà Nội vì lo ngại Việt Nam cho phép Trung Quốc dùng các đảo này để tấn công các điểm do Manila hoặc bên khác kiểm soát. Để củng cố hơn nữa chính sách không liên kết, Hà Nội đã gắn các hoạt động xây dựng đảo vào khuôn khổ hợp tác đa phương. Việt Nam luôn nhấn mạnh lập trường ủng hộ quan điểm của ASEAN về Biển Đông và tích cực tham gia đàm phán Bộ Quy tắc ứng xử trên Biển Đông (COC) phù hợp với Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển (UNCLOS).

Việc không có phản đối đáng kể nào đối với các hoạt động xây dựng đảo của Việt Nam cho thấy cách tốt nhất để Hà Nội bảo vệ chủ quyền biển đảo là duy trì chính sách không liên minh, bất kể Trung Quốc có trở nên quyết liệt đến đâu. Trung Quốc và Mỹ, cũng như Philippines và các nước Đông Nam Á khác có tuyên bố chủ quyền, đều không thấy cần thiết phải phản đối Việt Nam, bởi Hà Nội đã thành công trong việc khiến họ nhận thấy lợi ích của mình khi không làm vậy. Với Trung Quốc, không phản đối hoạt động xây dựng đảo của Việt Nam đồng nghĩa với việc củng cố lập trường trung lập của Hà Nội. Với các nước khác, việc làm ngơ lại giúp củng cố “tuyến phòng thủ mềm” trước sự mở rộng hàng hải của Trung Quốc. Sức mạnh của chính sách đối ngoại không liên kết của Việt Nam nằm ở khả năng biến cuộc chơi “được – mất” giữa các nước láng giềng thành cuộc chơi “cùng có lợi” cho Việt Nam. Trong tương lai, việc Việt Nam có thể mở rộng đảo hơn Trung Quốc và các bên tranh chấp khác hay không phụ thuộc vào việc nước này duy trì thành công chính sách đối ngoại không liên kết đến mức nào.

TS. Khang Vũ là nghiên cứu viên khách mời tại Khoa Khoa học Chính trị, Boston College. Lê Bá Nhật Thắng là cộng tác viên Dự án Đại Sự Ký Biển Đông. Có thể đọc bản gốc ở đây. Một bản PDF được lưu ở đây. Vui lòng xem hướng dẫn truy cập ở đây.

Nguyên tắc hoạt động của Dự án Đại Sự Ký Biển Đông.

—————

Dự án Đại Sự Ký Biển Đông tồn tại dựa trên tài trợ của cộng đồng. Nếu quý độc giả muốn có một nguồn thông tin tri thức khách quan, đa chiều dựa trên chiều sâu chuyên môn và dữ liệu có hệ thống, Dự án Đại Sự Ký Biển Đông là một địa chỉ mà mọi người có thể tin tưởng. Hãy chung tay cùng với chúng tôi duy trì Dự án bằng cách tài trợ cho Dự án, và khuyến khích bạn bè, đồng nghiệp cùng tài trợ Dự án. Xem hướng dẫn tài trợ ở đây: https://dskbd.org/tai-tro-cho-du-an/. Báo cáo tài chính sẽ được tổng kết vào cuối mỗi hai năm. Chúng tôi xin trân trọng cảm ơn.

Leave a comment

This site uses Akismet to reduce spam. Learn how your comment data is processed.