Mối Tương Quan Giữa Hệ Tư Tưởng, Chiến Lược Và Chiến Lược Răn Đe Của Đảng Cộng Sản Trung Quốc

Tác giả: Kevin Rudd | Chuỗi Bài giảng George F Kennan 2024, Đại học Quốc phòng, Washington, DC ngày 04 tháng 9 năm 2024

Biên dịch: Nguyễn Phương Ngân | Hiệu đính: Hương Nguyễn et al. | Dự án Đai Sự Ký Biển Đông

Bài giảng bàn về hệ khung tư tưởng của Trung Quốc cho quá trình đưa ra quyết định chiến lược; sự khác biệt giữa các khái niệm răn đe của Hoa Kỳ và Trung Quốc; và tác động đến sự ổn định chiến lược ở Eo biển Đài Loan.

Tôi vô cùng vinh dự khi được mời tham gia chuỗi bài giảng Kennan tại Trường Chiến tranh Quốc gia.

Và tôi cũng vô cùng tự hào khi George Kennan vào những năm 1946-1947 khi ấy là Phó Tư lệnh đầu tiên của Trường đã tổ chức một hoạt động ý nghĩa như chúng ta đang tiếp nối bây giờ. Vẫn còn nhớ bài giảng đầu tiên của ông khi đó có tựa đề “Các biện pháp dưới ngưỡng chiến tranh”.

Chính tại nơi này, ông đã ghé qua đây sau khi viết Bức điện dài từ Đại sứ quán Hoa Kỳ tại Moscow vào tháng 2 năm 1946 trước khi Chiến tranh Lạnh bắt đầu.

Cũng chính tại nơi này, ông đã dành hết công sức viết ra Bài viết X, đặt nền móng cho học thuyết về sự kiềm chế, chi phối chiến lược của Hoa Kỳ trong suốt thời kỳ Chiến tranh Lạnh, cho đến khi Liên Xô sụp đổ vào năm 1991.

Kennan mang một trí tuệ sáng suốt, sâu sắc và phi thường.

Nhờ vào khả năng xuất sắc của Kennan trong việc sử dụng ngôn ngữ, văn học và lịch sử Nga, ông đã mở ra một ngành học được coi là không mấy lãng mạn mang tên “Nghiên cứu khu vực”.

Cùng với khả năng phân tích chiến lược, cộng với sự am hiểu sâu sắc của ông về thế giới quan ý thức hệ của Liên Xô và những tích lũy thực tế về lịch sử và văn hoá Nga, tất cả hòa quyện lại tạo nên một con người có những đóng góp đáng gờm và quan trọng trong chiến lược lớn của Hoa Kỳ chống lại Nga.

Chẳng hạn, chúng ta thấy điều đó trong trong Bài viết X năm 1947, ông đã cho thấy những phân tích tuyệt vời về sự ám ảnh tuyệt đối của lãnh đạo Liên Xô và các lãnh đạo Nga trước đó về an ninh trước kẻ thù, thực tế hoặc tưởng tượng, cả ở trong nước và bên ngoài.

Hiện nay, vấn đề nổi bật liên quan đến chế độ Xô Viết là… những kẻ đứng đầu Điện Kremlin vẫn tiếp tục bị cuốn vào công cuộc bảo vệ quyền lực tuyệt đối mà họ đã giành được vào tháng 11 năm 1917. Họ đã nỗ lực để bảo vệ quyền lực đó trước những người dân trong nước, trong chính xã hội Xô Viết đó của họ. Và họ cũng phải cố gắng bảo vệ quyền lực trước những thế lực bên ngoài. Như chúng ta đã thấy, vì niềm tin vào ý thức hệ, họ nói với những người khác rằng thế gian ngoài kia đầy rẫy kẻ thù và nhiệm vụ cuối cùng của họ là phải lật đổ các thế lực chính trị bên kia biên giới. Lịch sử và truyền thống hùng mạnh của Nga đã bảo vệ họ được an toàn trên mảnh đất của mình.

Vì sao chiến tranh Đài Loan sẽ là một điều tồi tệ cho tất cả chúng ta?

Với những khán giả như các bạn, tôi sẽ không cần phải giải thích vì sao cuộc xâm lược quân sự vào Đài Loan sẽ là điều kinh khủng.

Dù cho kết quả ra sao, Bắc Kinh thắng hay bại, tất cả sẽ đều có những tác động không nhỏ đến tương lai của Đảng Cộng sản Trung Quốc, tương lai của vị thế Hoa Kỳ trên trường quốc tế cũng như sinh mệnh của những người dân ở Đài Loan.

Đó là còn chưa kể đến khả năng xảy ra một cuộc suy thoái toàn cầu sâu sắc, và có thể là một cuộc khủng hoảng, khi hai nền kinh tế lớn nhất thế giới bước vào một cuộc chiến tranh.

Ngoài ra, tùy thuộc vào kết quả, bất kỳ cuộc chiến nào như vậy cũng sẽ có tác động sâu sắc đến tương lai của trật tự toàn cầu.

Đó là lý do tại sao việc tránh một cuộc chiến như vậy xảy ra là rất quan trọng đối với tất cả chúng ta. Cách tốt nhất để làm điều này là thực hiện một chiến lược răn đe tích hợp hiệu quả liên quan đến Trung Quốc và Đài Loan, nhằm ngăn chặn chiến tranh một cách chủ động. Điều này nên được kết hợp với chính sách cạnh tranh chiến lược có quản lý và các biện pháp bảo vệ để giảm thiểu nguy cơ chiến tranh do tai nạn, leo thang hoặc tính toán sai lầm.

Cuộc tranh luận về một chiến lược răn đe hiệu quả không chỉ là vấn đề tranh luận diện hẹp của các nhà phân tích quân sự mà còn đòi hỏi chúng ta có những những hiểu biết nhất định: hệ khung mở rộng hơn về thế giới quan Mác-Lênin của Tập Cận Bình; những kết luận của ông về hệ tư tưởng về tương lai của Trung Quốc trong khu vực và trên thế giới; và dưới góc nhìn của ông, Hoa Kỳ và đồng minh vì ý thức hệ của mình mà đang có những cản trở những mục đích này như thế nào.

Mục đích của bài giảng

Do đó, mục đích của bài giảng nhằm tổng hợp lại những chủ đề phức tạp đó và khám phá các vấn đề sau:

– Thứ nhất, làm thế nào để xác định chiến lược răn đe của Trung Quốc trong bối cảnh thế giới quan ý thức hệ tổng thể của Tập Cận Bình đã ảnh hưởng lên tất cả các lĩnh vực chính sách;

– Thứ hai, làm thế nào để xác định rõ sự hiểu biết của Hoa Kỳ về khái niệm răn đe;

– Thứ ba, làm thế nào để hiểu được cách mà Trung Quốc nhìn nhận về răn đe, thường được dịch là “weishe”; và

– Cuối cùng, những khác biệt chính giữa khái niệm răn đe của Hoa Kỳ và Trung Quốc là gì, cũng như tác động của những khác biệt này đối với thực tiễn chính sách và sự ổn định chiến lược.

Tôi sẽ kết thúc bài giảng bằng một số nhận định về những việc cần thực hiện để xác định các khoảng trống trong chiến lược răn đe của Hoa Kỳ và các đồng minh, bao gồm cả trách nhiệm của chính người Đài Loan.

Đây là bài giảng thứ ba trong chuỗi bài giảng về chiến lược răn đe mà tôi đã thực hiện kể từ khi chuyển tới Washington làm việc vào năm ngoài. Vào hồi tháng Tư, tại Học viện Hải quân Hoa Kỳ ở Annapolis, tôi đã đưa ra các định nghĩa về các khía cạnh khác nhau liên quan đến chiến lược răn đe tích hợp (quân sự, kinh tế, công nghệ, chính sách đối ngoại và ý tưởng) và mối quan hệ của nó với Hoa Kỳ, Trung Quốc và Đài Loan. Sau đó, vào tháng Sáu, tại Trung tâm Nghiên cứu An ninh Châu Á – Thái Bình Dương ở Honolulu, tôi đã thảo luận về tác động của chiến dịch “vùng xám” gia tăng chống lại Đài Loan của Trung Quốc lên mô hình và hiệu quả của chiến lược răn đe tích hợp. Và giờ đây, vào tháng Chín, tôi đang tìm hiểu cách mà Bắc Kinh nhìn nhận khái niệm răn đe, cách lãnh đạo Trung Quốc áp dụng sự hiểu biết của họ về sự răn đe đối với Hoa Kỳ và các đồng minh đối với vấn đề Đài Loan, cùng với đó là cách mà Trung Quốc có thể diễn giải các nỗ lực răn đe của Hoa  Kỳ đối với chính mình.

Giống như các bài diễn thuyết trước đây, tôi đứng đây với tư cách một học giả nghiên cứu lâu năm về Trung Quốc, chứ không phải là đại diện cho những phân tích hay kết luận chính sách từ Chính phủ Úc.

Chính sách của Chính phủ Úc là ủng hộ một chiến lược răn đe như là cách hiệu quả nhất để duy trì cân bằng thuận lợi ở khu vực Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương. Điều này sẽ giúp củng cố cân bằng chiến lược trong toàn khu vực, từ đó đảm bảo hòa bình và ổn định lâu dài cho hàng tỷ người đang sống, làm việc và sinh sống trong khu vực mà chúng ta chia sẻ.

Chiến lược răn đe đồng thời đi kèm với cam kết duy trì trạng thái bình ổn chính trị trên Eo biển Đài Loan, bao gồm lập trường của Chính phủ Đài Loan trong việc giữ gìn nguyên trạng chính trị quốc tế của Đài Loan

Chiến lược răn đe này cũng đặt ra những câu hỏi hóc búa về khái niệm, chính sách, cũng như trong việc giao tiếp và thực hiện một cách hiệu quả. Tôi không chắc mình có thể trả lời được hết những câu hỏi đó, nhưng tôi cho rằng tất cả chúng ta thực sự cần phải suy nghĩ về những thách thức này, giống như cách người Trung Quốc, Đảng Cộng sản Trung Quốc, quân đội và tình báo của nước này đã làm trong suốt thập kỷ qua.

Khi tôi còn công tác ở Viện Nghiên cứu Xã hội Châu Á ở New York, tôi vô cùng vinh dự khi ngài Henry Kissinger khởi xướng Viện Chính sách Xã hội Châu Á, và sau đó là Trung tâm Phân tích Trung Quốc thuộc Viện. Tôi đã hỏi Henry rằng nhiệm vụ phân tích của chúng tôi nên là gì. Câu trả lời của ông rất Kennan. Ông cho rằng chúng ta nên cố gắng hiểu rõ những gì thực sự đang diễn ra trên thế giới và lý do tại sao, thay vì để mắt ta mờ đi vì những từ ngữ che đậy hoặc gây nhầm lẫn về các lực lượng chiến lược, xu hướng và thực tiễn. Ông cũng nhấn mạnh rằng chúng ta cần đặt câu hỏi sâu sắc hơn về những gì mình có thể đã bỏ lỡ trong các phân tích.

Những người theo chủ nghĩa Mác-Lênin cũng đã tự vấn, trong trong khuôn khổ mô hình phân tích của riêng họ,  một loạt những câu hỏi tương tự:

– Cân bằng “quyền lực quốc gia toàn diện” đang diễn ra như thế nào?

– Xu hướng “cơ bản” của thời đại là gì?

– Những “mâu thuẫn” hay điểm rạn vỡ nào tồn tại trong các xu hướng này?

– Đâu là lãnh địa hiện tại và lãnh địa mong muốn cho “cuộc đấu tranh” chống lại kẻ thù, dù là trong nước hay ở nước ngoài?

Đó là cách tiếp cận của Trung Quốc: phân tích nghiêm ngặt, đặt ra những câu hỏi sâu sắc về chiến lược răn đe, việc sử dụng vũ lực có chọn lọc, và mức độ tin tưởng vào những gì họ tin là động lực cơ bản của các thế lực lịch sử to lớn và không thể cưỡng lại đang thúc đẩy sự thay đổi trên thế giới ngày nay.

Hiểu về khái niệm “răn đe” và hiểu nó trong cả hai hệ thống có thể cho ta biết rõ hơn về các nguyên tắc tổ chức của hành vi chính sách của Trung Quốc trên thực tế. Khi đó chúng ta hãy cố gắng trả lời câu hỏi lớn của Kissinger về điều gì thực sự đang xảy ra trên thế giới và tại sao. Và làm thế nào để đem tại những tác động tích cực nhất đến tiến trình sự kiện để duy trì hòa bình.

Định vị “Răn đe” trong khung ý thức hệ của Mác-Lênin

Trong lịch sử Trung Quốc, “răn đe” đã tồn tại từ lâu. Tôn tử đã viết cuốn Binh pháp trong thời Xuân Thu Chiến Quốc. Đó là những năm 475-221 TCN khi lãnh thổ bị chia thành bảy vương quốc lớn độc lập cạnh tranh nhau để giành quyền bá chủ đế quốc, mà cuối cùng sẽ trở thành một Trung Quốc thống nhất. Tôn Tử nổi tiếng với khái niệm trong chiến lược quân sự khi phân biệt rõ các biện pháp “chiến tranh” và “phi chiến tranh” và quan điểm “Người đánh trăm trận thắng cả trăm chưa thể kể là người tài giỏi nhất, không đánh mà buộc địch đầu hàng mới là người giỏi nhất”.

Đã có nhiều thế hệ viết về ý nghĩa thực tiễn của quan điểm này, bao gồm một kho tàng văn học to lớn về nghệ thuật lừa dối chính trị và quân sự. Tuy nhiên, các tác phẩm kinh điển này chỉ giúp chúng ta hiểu được một phần về vị trí của răn đe trong thế giới quan và chiến lược của Trung Quốc hiện đại.

Tuy nhiên, chúng ta cần phải khiêm tốn về những điều có thể biết hoặc không thể biết về tầm nhìn chiến lược của những người đứng đầu Trung Quốc hiện nay.

Kennan cũng từng phải cố gắng cắt nghĩa Xô Viết, nhưng may mắn thời đó Moscow và Washington vẫn là đồng minh thời chiến, vì thế có thể nắm được rõ hơn những chính sách và hành động của Nga trong các nỗ lực chung nhằm đánh bại Đức.

Kể từ khi thành lập, nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa luôn coi Hoa Kỳ là đối trọng cả về ý thức hệ lẫn chiến lược, ngoại trừ giai đoạn năm 1971 đến 1991 khi Trung Quốc có xung đột sâu sắc với Nga.

Điểm chung giữa Trung Quốc và Liên Xô là cùng sử dụng khung phân tích khuôn khổ Mác-Lênin về vị thế hiện tại và tương lai của họ trên thế giới và cách xác định kẻ thù trong các cuộc cách mạng, cả bên trong lẫn bên ngoài. Thực vậy, trong nhật ký của Kennan vào tháng 12 năm 1945, khi ông còn làm Phó Đại sứ ở Moskva, ông ghi lại một cuộc trò chuyện với đồng nghiệp Chip Bohlen (người từng làm thông dịch viên cho Roosevelt tại các hội nghị Tehran và Yalta với Stalin) và đồng nghiệp người Anh, Isaiah Berlin. Kennan trích dẫn Berlin, nhấn mạnh tầm quan trọng sống còn của giáo điều Marxist trong suy nghĩ và hành động của Liên Xô.

Để hiểu đầy đủ các khái niệm răn đe của Trung Quốc hiện nay, ta phải nhìn chúng trong khung ý thức hệ Marx-Lenin, bao gồm chủ nghĩa duy vật lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng. Điều này có thể khó hiểu đối với người Mỹ hiện đại. Nhưng đây là một vấn đề của “chủ nghĩa phóng chiếu” (projectionism). Chúng ta không nên nghĩ đơn giản rằng Bắc Kinh chỉ dựa vào các học thuyết hiện thực chiến lược cứng nhắc, trong đó răn đe chỉ là một phần nhỏ.

Quả thực chủ nghĩa hiện thực có vai trò quan trọng trong tư duy chiến lược của Trung Quốc, đó là lý do khiến John Mearsheimer có nhiều người hâm mộ ở Bắc Kinh.

Tuy nhiên, trong Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ), cả chủ nghĩa hiện thực và răn đe đều được đặt trong một khung phân tích biện chứng Marx-Lenin ở góc độ sâu xa hơn. Tất cả các lãnh đạo Trung Quốc hiện nay, từ dân sự đến quân sự, đều được đào tạo và rèn luyện về phân tích biện chứng.

Dưới thời Tập Cận Bình, ý thức hệ Marxist đã được phục hưng mạnh mẽ hơn. Chủ nghĩa biện chứng Marx-Lenin trở thành chủ đề của nhiều phiên họp học tập trong Bộ Chính trị. Trên thực tế, Tập Cận Bình đã trở thành nhà lãnh đạo có định hướng ý thức hệ mạnh nhất sau thời Mao Trạch Đông, điều này thể hiện qua khối lượng lớn các tài liệu tư tưởng so với các nhà lãnh đạo hậu nhiệm kỳ Mao Trạch Đông.

Tại phương Tây, nhiều người coi nhẹ ý thức hệ này chỉ như một hình thức chính trị nhằm biện minh cho sự tồn tại của ĐCSTQ, thay vì là một công cụ thực sự định hướng cho các chính sách trong thực tiễn. Tuy nhiên, tôi cho rằng, trong một thập kỷ qua, Tập Cận Bình đã làm cho ĐCSTQ và cả đất nước trở nên “Mác-Lênin” hơn và mang chủ nghĩa dân tộc nhiều hơn. Hơn nữa, tôi cho rằng sự thay đổi ý thức hệ và thay đổi chính sách thực tế có mối liên hệ chặt chẽ trong quốc gia và quốc tế. Mặc dù không phải tất cả sự thay đổi đều do chủ nghĩa Marx-Lenin gây ra, nhưng ý thức hệ này là một yếu tố quan trọng trong hệ thống niềm tin của Tập Cận Bình, cả trong phân tích thực tiễn lẫn trong việc định hình chính sách.

Hơn nữa, nếu hệ thống Trung Quốc, vì những lý do riêng nội tại, đang coi trọng ý thức hệ hơn bất kỳ thời điểm nào kể từ khi Cách mạng Văn hóa kết thúc, thì chúng ta cũng nên làm như vậy khi tìm cách hiểu các nhận thức chiến lược hiện tại của Trung Quốc.

Chủ nghĩa duy vật lịch sử

Theo chủ nghĩa Marx-Lenin, chủ nghĩa duy vật lịch sử được coi là hệ thống “sự thật khoa học và khách quan”, định vị Trung Quốc đương đại trong một quá trình thay đổi cơ cấu sâu rộng trên toàn cầu. Quá trình này, dưới con mắt của Trung Quốc, được thúc đẩy bởi những lực lượng lịch sử bất biến và không thể cưỡng lại, dẫn dắt thế giới từ xã hội nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa, rồi đến xã hội chủ nghĩa và cuối cùng là cộng sản. Tác nhân thay đổi này có tính biện chứng, tức là sự tương tác giữa các mặt đối lập khi các lực lượng tiến bộ đấu tranh và cuối cùng thay thế các lực lượng bảo thủ, giống như trong thuyết chính trị của Darwin cho rằng kẻ mạnh tất sẽ thay thế kẻ yếu.

Chính từ khung phân tích này mà Tập Cận Bình và ĐCSTQ kết luận rằng lịch sử đứng về phía Trung Quốc, và phương Tây tư bản chủ nghĩa, do Hoa Kỳ dẫn đầu sẽ bị suy tàn, mở ra kỷ nguyên mới trong lịch sử thế giới. Đây cũng là nguồn gốc của nhiều cụm từ được Tập Cận Bình thường xuyên sử dụng trong các bài phát biểu chính trị và đối ngoại hiện nay như:

– “Sự trỗi dậy của phương Đông và suy tàn của phương Tây”;

– “Những thay đổi lớn chưa từng thấy trong một trăm năm” ám chỉ Trung Quốc dưới thời Tập Cận Bình kể từ Đại hội Đảng lần thứ 19 năm 2017 có ý nghĩa lịch sử tương đương với Cách mạng Bolshevik năm 1917;

– “Trung Quốc đang dần trở thành trung tâm của thế giới”;

– Những cải thiện liên tục trong “quyền lực quốc gia toàn diện” của Trung Quốc, sự cân bằng quyền lực của nước này khi so sánh với các nước khác, và các lực lượng thay đổi không thể cưỡng lại hiện đang thúc đẩy trật tự toàn cầu hướng tới việc chia sẻ quyền lực nhiều hơn, thay vì thế giới đơn cực cũ do Hoa Kỳ thống trị;

– Và, để phản ứng lại tất cả những điều trên, tuyên bố của Tập Cận Bình cho rằng “các nước phương Tây do Hoa Kỳ dẫn đầu” “bao vây và đàn áp toàn diện Trung Quốc”.

Bất luận chúng ta nghĩ thế nào về logic và tính xác thực của những kết luận này, điều quan trọng nằm ở sự tự tin về mặt tư tưởng và dân tộc trong phân tích của Tập Cận Bình về cạnh tranh chiến lược giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ. Quan điểm này có thể khiến Trung Quốc trở nên tự tin quá mức trong việc ra quyết định chính sách, từ vấn đề Đài Loan đến Biển Đông và Hoa Đông. Dù không khuyến khích Trung Quốc mạo hiểm quá mức, nhưng quan điểm này lại thúc đẩy họ chấp nhận những rủi ro đã được tính toán kỹ lưỡng. Điều này có thể khiến Trung Quốc từ bỏ sự thận trọng chiến lược mà các lãnh đạo trước như Đặng Tiểu Bình, Giang Trạch Dân và Hồ Cẩm Đào từng duy trì trong nhiều thập kỷ.

Chủ nghĩa duy vật biện chứng

Điều này dẫn chúng ta đến yếu tố khái niệm chính thứ hai trong toàn bộ hệ tư tưởng Marx-Lenin, đó là chủ nghĩa duy vật biện chứng.

Nếu chủ nghĩa duy vật lịch sử giúp chúng ta hiểu Trung Quốc đang ở một bước ngoặt quan trọng trong lịch sử thế giới do các lực lượng lịch sử không thể cưỡng lại, thì chủ nghĩa duy vật biện chứng là kim chỉ nam cho Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) có các bước đi để thúc đẩy sự thay đổi lịch sử bằng cách can thiệp vào sự kiện hiện tại.

Chủ nghĩa duy vật biện chứng thực hiện điều này bằng cách xác định chính xác các lực lượng đang tác động trong thời điểm hiện tại, mà theo phân tích của Đảng, đang cản trở hoặc thúc đẩy sự thay đổi tiến bộ. Những vấn đề lớn này mà đảng phải đối mặt được gọi là “mâu thuẫn lớn”. Dựa trên phân tích này, đảng cũng xem xét cách giải quyết những “mâu thuẫn” này một cách hiệu quả nhất qua các phương pháp đấu tranh, bao gồm việc đấu tranh có thể là bạo lực hoặc phi bạo lực.

Điều này lại dẫn đến việc đưa ra các quyết định chính sách chiến lược. Ví dụ, tại Đại hội lần thứ 19 của đảng năm 2017, Tập Cận Bình đã thay đổi cách xác định mâu thuẫn lớn của ĐCSTQ. Trước đây, theo Đặng Tiểu Bình năm 1982, đảng nên tập trung vào tăng trưởng kinh tế bằng mọi cách. Nhưng giờ đây, Tập Cận Bình yêu cầu đảng phải giải quyết các vấn đề “mất cân bằng” trong phát triển mà thời kỳ của Đặng Tiểu Bình đã gây ra.

Một ví dụ thực tiễn về sự thay đổi tư tưởng này vào năm 2017 là việc siết chặt khu vực tư nhân ở Trung Quốc. Khu vực tư nhân được coi là một vấn đề “mất cân bằng” lớn trong mô hình phát triển của Trung Quốc, vì nó có thể thách thức quyền lực chính trị của đảng. Điều này cho thấy tư tưởng có ảnh hưởng quan trọng đến chính sách thực tiễn.

Trên trường quốc tế, Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) thường không công khai rõ ràng về cách họ xác định các “mâu thuẫn lớn” đang cản trở sự phát triển của Trung Quốc. Tuy nhiên, nhìn vào lịch sử của Đảng, có thể thấy rằng các mâu thuẫn bên ngoài của Trung Quốc đã thay đổi theo thời gian:

– Ban đầu, trước khi Nhật Bản xâm lược Trung Quốc năm 1936, các thế lực đế quốc tư bản như Hoa Kỳ và Anh, những nước ủng hộ Quốc dân đảng (KMT), được coi là “mâu thuẫn lớn”.

– Khi Nhật Bản chiếm đóng, Tokyo trở thành mối đe dọa chính, thay thế các thế lực phương Tây, cho đến khi Thế chiến II kết thúc năm 1945.

– Sau đó, Hoa Kỳ lại trở thành “mâu thuẫn lớn” kể từ Chiến tranh Triều Tiên cho đến khi Nixon và Kissinger thăm Trung Quốc năm 1972.

– Tiếp đến, Liên Xô được coi là “mâu thuẫn lớn” trong giai đoạn Chiến tranh Lạnh với định nghĩa mới là chủ nghĩa “đế quốc xã hội”.

Đến năm 1989, sau cuộc biểu tình tại Thiên An Môn, Trung Quốc kết luận rằng sự hỗ trợ chính trị của Hoa Kỳ đối với phong trào này đã biến Washington một lần nữa thành “mâu thuẫn lớn”, đe dọa sự tồn tại của ĐCSTQ. Tuy nhiên, sau khi các lệnh trừng phạt hậu Thiên An Môn được dỡ bỏ, Trung Quốc tái hội nhập với phương Tây và gia nhập WTO vào năm 2001. ĐCSTQ lúc này tin rằng thay vì đối mặt với nguy cơ lớn từ bên ngoài, họ đang tận hưởng một “giai đoạn cơ hội chiến lược”.

Giai đoạn này kéo dài đến Đại hội Đảng lần thứ 20 năm 2022, khi Tập Cận Bình chính thức loại bỏ cụm từ “giai đoạn cơ hội chiến lược”, báo hiệu rằng Trung Quốc đã bước vào một thời kỳ mới với các giả định chiến lược mang tính đối đầu hơn về tình hình quốc tế.

Dù ĐCSTQ không công khai xác định Hoa Kỳ là “mâu thuẫn chủ yếu bên ngoài” vì e ngại điều này có thể bị coi là dấu hiệu chuẩn bị chiến tranh, tình hình căng thẳng giữa hai nước từ năm 2017 đến nay, cùng với tuyên bố của Tập Cận Bình năm 2023 rằng Hoa Kỳ và các nước phương Tây đang bao vây và đàn áp Trung Quốc, khiến nhiều người tin rằng ĐCSTQ đã chính thức coi Hoa Kỳ là mâu thuẫn lớn cần đối mặt trong cuộc đấu tranh dài hạn.

Vậy, những khái niệm tư tưởng phức tạp này có ý nghĩa gì trong thực tế? Và chúng ảnh hưởng thế nào đến cuộc tranh luận về chiến lược răn đe đối với vấn đề Đài Loan, cả ở Bắc Kinh và Washington?

Vì Trung Quốc vẫn tin vào cái gọi là “chủ nghĩa xã hội khoa học”, họ tin rằng việc Hoa Kỳ “kiềm chế và đàn áp” không chỉ còn là quan điểm của họ mà là sự thật khách quan. Khi hệ thống Trung Quốc coi một kết luận là “khoa học” và “khách quan”, việc thỏa hiệp với họ trở nên khó khăn. Đây là lý do Trung Quốc thường yêu cầu Hoa Kỳ và các đồng minh “thay đổi suy nghĩ”, “phân tích đúng tình hình” và “điều chỉnh các chính sách sai lầm”.

Chúng ta có thể thấy những lập luận này kỳ lạ và có thể đơn giản đáp trả rằng chúng ta có quan điểm khác. Nhưng với ĐCSTQ, tư tưởng của họ không chấp nhận bất kỳ quan điểm đối lập nào.

Hơn nữa, nếu có bất kỳ thỏa hiệp nào giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc, Bắc Kinh sẽ coi chúng là những thay đổi ngắn hạn, mang tính chiến thuật chứ không phải là thay đổi chiến lược dài hạn. Ví dụ, thỏa thuận tháng 11 năm 2023 để ổn định quan hệ Hoa Kỳ – Trung nhiều khả năng chỉ là sự điều chỉnh tạm thời. Điều này là do, nếu không có sự thay đổi lớn trong lãnh đạo Trung Quốc, cuộc đấu tranh dài hạn với Hoa Kỳ sẽ luôn được gắn liền với tư tưởng của Đảng.

Kết hợp với thế giới quan ý thức hệ của Tập Cận Bình

Nói cách khác, Bắc Kinh đã kết luận rằng chiến lược của Hoa Kỳ ở Đông Á không chỉ nhằm ngăn chặn sự hoàn thành Cách mạng Trung Quốc bằng cách ngăn chặn Đài Loan gia nhập Trung Quốc, mà còn nhằm cản trở sự trỗi dậy toàn diện của Trung Quốc, không cho quốc gia này đảm nhận vị thế xứng đáng trên thế giới.

Đây chính là điểm giao thoa giữa chủ nghĩa duy vật lịch sử và biện chứng. Trong cái mà họ gọi là “thế giới quan khoa học và khách quan”, ĐCSTQ dưới sự lãnh đạo của Tập Cận Bình đã đi đến những kết luận sau:

– Thứ nhất, thời của Trung Quốc đóng vai trò thống trị và tiên phong trên thế giới đã đến, bởi đây là kết quả của quá trình đấu tranh lịch sử mà chủ nghĩa duy vật lịch sử đã đưa Trung Quốc đến sau hàng thế kỷ.

– Thứ hai, những nỗ lực của Trung Quốc trong việc thực hiện vai trò này – cả trong vấn đề thống nhất quốc gia với Đài Loan lẫn vị thế rộng lớn hơn trên trường quốc tế – đang bị cản trở bởi những tàn dư cuối cùng của trật tự dân chủ tư bản phản động cũ do Hoa Kỳ đứng đầu.

– Thứ ba, điều này bắt buộc dẫn đến một thời kỳ đấu tranh dài hạn và ngày càng tích cực chống lại Hoa Kỳ.

– Thứ tư, theo quan điểm của ĐCSTQ, Trung Quốc nên tự tin tuyệt đối rằng họ sẽ chiến thắng, bởi các quốc gia phương Tây sẽ tiếp tục suy thoái nội bộ, các căng thẳng biện chứng giữa Hoa Kỳ và các đồng minh của nước này sẽ gia tăng, và sự kiên định lãnh đạo toàn cầu của Hoa Kỳ sẽ bắt đầu rạn nứt.

– Thứ năm, Trung Quốc không nên nhượng bộ chiến lược nào với Hoa Kỳ, như đã từng làm dưới thời Đặng Tiểu Bình và các nhà lãnh đạo tiền nhiệm, khi mối quan hệ Trung – Mỹ được xem là “quan trọng nhất trong tất cả các vấn đề quan trọng” (zhongzhong zhi zhong). Tuy nhiên, một số thay đổi mang tính chiến thuật có thể được chấp nhận, tương tự như việc Mao Trạch Đông đã thỏa hiệp với Hoa Kỳ trong các cuộc đàm phán đình chiến Chiến tranh Triều Tiên.

Mối quan hệ giữa ý thức hệ, chiến lược và chiến lược răn đe

Vậy vai trò cụ thể của chiến lược và sự răn đe là gì trong bối cảnh mang nặng ý thức hệ như hiện nay?

Trong hệ thống của ĐCSTQ, tư tưởng không chỉ là một tập hợp các niềm tin cốt lõi của chủ nghĩa Marx-Lenin, mà còn là một công cụ phân tích để hiểu và phản ứng với thực tế chính trị, kinh tế và quân sự, cũng như là cơ sở hình thành chính sách. Tư tưởng này xác định sự khác biệt giữa những gì có tầm quan trọng chiến lược so với chỉ đơn thuần là chiến thuật, như đã thể hiện trong bài phát biểu năm 2023 của Tập Cận Bình về “Sáu mối quan hệ lớn”. Những gì được xem là “chiến lược” được xác định bởi các “mâu thuẫn lớn” mà Đảng đã định nghĩa. Điều này chỉ dẫn cho Đảng cách phân bổ các nguồn lực chiến lược để theo đuổi cuộc “đấu tranh”.

Trong khuôn khổ này, như đã đề cập ở trên, rất có thể Hoa Kỳ đã được xác định là “mâu thuẫn lớn bên ngoài” của Trung Quốc. Đây cũng là lăng kính tư tưởng mà Bắc Kinh có khả năng nhìn nhận Nga và Ukraine – tức là các công cụ chiến thuật trong sứ mệnh chiến lược của Trung Quốc chống lại Hoa Kỳ. Tư duy lý luận tương tự cũng có thể áp dụng để xác định lập trường chiến lược và “cuộc đấu tranh” của Trung Quốc trong các lĩnh vực chính trị và chính sách khác.

Hơn nữa, trong học thuyết Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc (PLA), sự răn đe có liên quan trực tiếp đến cơ chế hoạt động của “cuộc đấu tranh” ở cấp độ thực tiễn.

Mấu chốt của tất cả những điều trên là sự tự tin chính trị và tư tưởng mạnh mẽ của Trung Quốc về khả năng hiện thực hóa thành công chiến lược chống Hoa Kỳ. Cùng với đó là khuynh hướng ngày càng tính toán kỹ lưỡng trong việc chấp nhận rủi ro, bất chấp các nguyên tắc cẩn trọng thông thường của sự răn đe.

Tương tự như dưới thời Mao Trạch Đông, trong thời Tập Cận Bình, tư tưởng đóng vai trò quan trọng trong cả chiến lược và sự răn đe, nhưng cũng không thể loại bỏ hoàn toàn các kỷ luật chiến lược và quân sự truyền thống mà phương Tây đã quen thuộc.

Những hiểu biết của Hoa Kỳ về sự răn đe

Vậy, khái niệm răn đe theo định nghĩa chính thức của Hoa Kỳ là gì?

Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ trong Tiền Học thuyết 2-19 về Chiến lược định nghĩa sự cưỡng ép là việc sử dụng “đe dọa vũ lực để định hình hành vi của một tác nhân khác”. Họ cũng coi cưỡng ép là một “thuật ngữ bao trùm hai hình thức khác nhau: răn đe và cưỡng chế”. “Răn đe nhằm ngăn cản kẻ thù [hoặc tác nhân khác] thực hiện một hành động mà họ chưa làm”, trong khi “cưỡng chế nhằm thuyết phục kẻ thù thực hiện một điều mà họ không muốn làm, hoặc ngừng một hành động mà họ đã bắt đầu”.

Ấn phẩm Liên quân 3-0 của Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ tiếp tục nêu rằng răn đe cần có ba yếu tố: năng lực dựa trên phương tiện để tác động hành vi; sự đáng tin cậy về mối đe dọa sử dụng những phương tiện này; và sự truyền đạt thông điệp sao cho đối tượng nhận được thông điệp có thể phản ứng bằng cách thay đổi hành vi.

Trong vấn đề này, Ấn phẩm Liên quân 3-0 còn nói rằng “Răn đe xuất phát từ niềm tin của đối thủ rằng một mối đe dọa trả đũa đáng tin cậy đang tồn tại, rằng hành động đang được cân nhắc không thể thành công, hoặc rằng chi phí vượt quá lợi ích nhận được khi hành động.”.

Điều này dẫn đến câu hỏi chính: giới chính trị và quân sự Trung Quốc hiểu các hành động của Hoa Kỳ và đồng minh qua lăng kính răn đe như thế nào? Chúng ta không thể đơn giản giả định rằng các hành động và mục đích chiến lược của chúng ta được Bắc Kinh hiểu theo cách mà chúng ta mong đợi. Điều này đòi hỏi phải tránh được tình thế tiến thoái lưỡng nan lâu nay về “chủ nghĩa phóng chiếu” – ở Washington, Bắc Kinh hay Đài Bắc – khi mỗi bên cố gắng lý giải ngôn ngữ và hành động của bên kia bằng cách áp đặt những gì “bản thân” sẽ làm trong hoàn cảnh tương tự.

Các định nghĩa của Trung Quốc về sự răn đe

Cách dịch từ “răn đe” sang tiếng Trung là từ ghép weishe. Như Marcrum và Mulvaney đã chỉ ra trong một nghiên cứu quan trọng của họ vào năm 2021 tại Viện Chính sách Chiến lược Úc về các khái niệm răn đe của Hoa Kỳ và Trung Quốc, Quân Giải phóng Nhân dân (PLA) không công bố công khai học thuyết quân sự của mình. Vì vậy, chúng ta phải dựa vào nhiều tài liệu chính thức và bán chính thức khác, bao gồm Học viện Khoa học Quân sự Trung Quốc và các bản cập nhật định kỳ của tài liệu chính thống của họ, Khoa học Chiến lược Quân sự (Zhanluexue).

Vì những lý do này, chúng ta cần chấp nhận rằng có một dải ý nghĩa xung quanh khái niệm răn đe ở Trung Quốc, rộng hơn và ít xác định hơn so với khái niệm mà Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ cung cấp. Cũng có những mức độ bất đồng nhỏ giữa chính phủ và nhà nghiên cứu Trung Quốc trong kho tàng nghiên cứu về chủ đề này.

Tuy nhiên, theo cách hiểu của tôi, khái niệm weishe của Trung Quốc bao gồm bảy nhóm ý nghĩa chính.

Thứ nhất, phiên bản năm 2020 của Khoa học Chiến lược Quân sự định nghĩa răn đe chiến lược là thuộc về chính trị: đó là “một loại đấu tranh quân sự” nhưng được thực hiện “để đạt được một mục tiêu chính trị cụ thể”. Thực tế, phiên bản trước đó vào năm 2013 đã mô tả răn đe là:

– “một sự tiếp nối của chính trị” và “phụ thuộc vào chính trị”;

– rằng “chính trị và răn đe có mối liên hệ với nhau như mục đích và phương tiện”;

– và rằng “không có sự răn đe nào phi chính trị”.

Tài liệu mới năm 2020 nêu rõ rằng răn đe yêu cầu:

– xây dựng “nền tảng chính trị cho sự huy động và tham gia của toàn quốc”;

– một “lãnh đạo mạnh mẽ, tập trung và thống nhất” có khả năng huy động như vậy; và

– “hợp tác chặt chẽ với các cuộc đấu tranh chính trị và ngoại giao”.

Đây là một tập hợp các định nghĩa phụ rõ ràng về răn đe. Mặc dù bản chất chính trị của răn đe có thể rõ ràng đối với khán giả phương Tây, điều quan trọng là răn đe ở Trung Quốc không được ủy quyền cho quân đội như một bộ biện pháp, hành động và chiến lược thông thường. Nó được điều hành từ đỉnh tháp trong cấu trúc chỉ huy chính trị (có lẽ là Quân Uỷ Trung ương do Tập Cận Bình chủ trì) với các mục tiêu “cụ thể”, thay vì chung chung, rõ ràng trong tâm thức.

Thứ hai, theo Khoa học Chiến lược Quân sự, “weishe” được định nghĩa là “nhắm vào tâm lý, nhận thức và hệ thống ra quyết định của đối thủ”. Do đó, đây là một khái niệm quân sự và tâm lý chính trị, yêu cầu “nghiên cứu cẩn thận các đặc điểm tâm lý và hành vi của các nhà ra quyết định của đối thủ”.

Phiên bản năm 2013 của Khoa học Chiến lược Quân sự cũng nêu rõ rằng “bên răn đe cố gắng khiến đối thủ tưởng tượng hoặc suy đoán về những hậu quả khủng khiếp có thể xảy ra từ mối đe dọa, từ đó kích thích nỗi sợ tâm lý ở đối thủ”.

Điều này cũng là một tập hợp các định nghĩa phụ rõ ràng mà nên khiến tất cả các quốc gia cân nhắc khi họ thấy mình ở phía nhận răn đe, cưỡng chế hoặc đe doạ trừng phạt của Trung Quốc.

Điều thứ ba, và cũng rất rõ ràng, là việc chấp nhận bạo lực như một yếu tố cần thiết của răn đe. Khoa học Chiến lược Quân sự nêu rằng:

– Một “yếu tố cơ bản” của răn đe là “quyết tâm dám sử dụng vũ lực và giỏi trong việc sử dụng vũ lực”;

– “Răn đe phải được hỗ trợ bởi thực chiến” để đảm bảo rằng “bất kỳ kẻ thù nào, kể cả kẻ thù mạnh, đều bị thuyết phục rằng bất kỳ hành động xâm phạm nào vào Trung Quốc sẽ gặp phải sự trả đũa thích đáng”;

– “Chúng ta nên sẵn sàng chuyển sang thực chiến bất cứ lúc nào để đảm bảo hiệu quả của răn đe”.

Như phiên bản năm 2013 đã nói: “Răn đe không phải là thể hiện ý chí chính trị qua các cuộc tham vấn thân thiện, sự hiểu biết lẫn nhau và các thỏa hiệp, mà là truyền tải mối nguy hiểm, sự khẩn trương và thực tế của bạo lực có thể xảy ra.”

Do đó, Trung Quốc không hề ngần ngại khi thẳng thắn đưa ra luận điểm cơ bản của mình rằng chính triển vọng bạo lực thực sự và trực tiếp mới là cỗ máy thiết yếu để phương trình răn đe có nghiệm – tức là để đạt được tác động tâm lý mong muốn nhằm sau đó đạt được các mục tiêu chính trị đã được đặt ra.

Thứ tư, Khoa học Chiến lược Quân sự cũng chỉ ra ba thành phần chính của răn đe hiệu quả: năng lực, ý chí chính trị và khả năng giao tiếp hiệu quả, tương tự như trong học thuyết của Hoa Kỳ. Những thành phần này được diễn đạt như sau:

– Sức mạnh là “nền tảng của răn đe, vì răn đe không có sức mạnh chỉ là một trò hề”;

– Quyết tâm “sử dụng vũ lực khi cần thiết” vì “thiếu quyết tâm khiến đối thủ nghi ngờ tính hợp lệ của răn đe”;

Truyền tải quyết tâm này một cách “kịp thời, nhanh chóng và chính xác để mục tiêu răn đe có thể hiểu đúng thông tin và tạo ra hiệu ứng mong muốn”.

Tuy nhiên, nhiều học giả Trung Quốc nhấn mạnh tầm quan trọng của ý chí chính trị. Chẳng hạn, Dương Nguyên từ Học viện Khoa học Xã hội Trung Quốc, dù viết về răn đe hạt nhân vào năm 2021, đã nói rằng “ai sẵn sàng chấp nhận rủi ro về sự mất kiểm soát nhiều hơn sẽ có thể buộc bên kia phải nhượng bộ”. Đáng lo ngại hơn, Trung tâm Phân tích Hải quân đã nhấn mạnh Dương đã chỉ ra rằng:

“Nhìn chung, trong các tranh chấp khu vực liên quan đến Hoa Kỳ, lợi ích của Hoa Kỳ thường không thực sự quan trọng, vì vậy các quốc gia sở hữu vũ khí hạt nhân trong khu vực thường có [mức độ] quyết tâm thuận lợi hơn cho tình hình.”

Nói cách khác, điều này cho thấy Trung Quốc có quyết tâm chính trị lớn hơn trong các giao dịch răn đe với các quốc gia trong khu vực, vì Trung Quốc là một quốc gia có vũ khí hạt nhân với các lợi ích cốt lõi trong khu vực, trong khi Hoa Kỳ không có những lợi ích tương tự.

Thứ năm, từ kho tàng nghiên cứu răn đe của Trung Quốc, chúng ta thấy rằng năng lực răn đe trải rộng trên tất cả các lĩnh vực quyền lực của nhà nước. Như nghiên cứu của Trung tâm Phân tích Hải quân Hoa Kỳ đã nói: “Ở mức độ thấp của xung đột, các nỗ lực răn đe thường tập trung vào các hoạt động kinh tế, ngoại giao và truyền thông ít có khả năng leo thang thành khủng hoảng toàn diện,” mặc dù hầu hết các tác giả Trung Quốc cho rằng “khả năng sử dụng vũ lực chống lại một quốc gia khác là yếu tố cuối cùng cho răn đe”.

Thứ sáu, theo Khoa học Chiến lược Quân sự, tám phương pháp răn đe quân sự bao gồm:

– Hành động và ngôn từ để tạo ra một bầu “không khí” của chiến tranh sắp xảy ra;

– Trình diễn vũ khí hiện đại có thể gây “thiệt hại lớn cho kẻ thù”;

– Tập trận quân sự để “thể hiện khả năng chiến đấu của chúng ta, nhưng cũng khiến đối thủ nghi ngờ ý định của chúng ta, gây ra sự hoảng loạn tâm lý”;

– Điều chỉnh triển khai quân sự để “khiến đối thủ cảm thấy áp lực của chiến tranh sắp xảy ra … dựa trên cả hư cấu và thực tế”;

– Tăng cường sẵn sàng quân sự, bao gồm huy động địa phương để “gây ra một làn sóng giáo dục quốc phòng”;

– Tấn công thông tin để làm tắc nghẽn hệ thống chỉ huy, cảnh báo sớm, phòng không và hệ thống chống tên lửa của đối thủ;

– Các chiến dịch quân sự có giới hạn, như tập trận và thử nghiệm vũ khí, có thể “siết chặt không gian tác chiến của đối thủ và hạn chế động thái của họ”;

– Các cuộc tấn công quân sự cảnh cáo nhằm vào “một số mục tiêu quân sự và chính trị có hiệu ứng răn đe rõ ràng”.

Thứ bảy, về đối tượng của răn đe, Khoa học Chiến lược Quân sự trong phiên bản năm 2013 nêu rằng: “Weishe là các hành động chiến lược của một quốc gia hoặc nhóm chính trị đe dọa sử dụng hoặc thực sự sử dụng sức mạnh quân sự để ảnh hưởng đến phán đoán chiến lược của đối thủ nhằm đạt được một số mục tiêu chính trị nhất định”. Điều này được thực hiện bằng cách:

– Khiến đối thủ cảm thấy khó khăn để đạt được mục tiêu mong muốn, hoặc rằng lợi ích không xứng đáng với tổn thất, và/hoặc

– Khiến đối thủ từ bỏ các hành động thù địch, từ đó đạt được một số mục tiêu chính trị nhất định.

Phiên bản năm 2020 của Chiến lược Quân sự nêu rõ hơn rằng: “Răn đe chiến lược (Zhanlue Weishe) là một phương pháp xung đột quân sự nhằm đạt được mục tiêu chính trị dựa trên sức mạnh quân sự, sử dụng toàn diện các phương tiện khác nhau, thông qua việc thể hiện sự mạnh mẽ và quyết tâm sử dụng sức mạnh, khiến bên kia phải đối mặt với những hậu quả không thể chịu đựng được và buộc họ phải nhượng bộ, thỏa hiệp hoặc đầu hàng.”

Điều quan trọng về những định nghĩa này là chúng bao hàm cả răn đe và ép buộc – tức là cả những mối đe dọa quân sự phòng ngừa nhằm ngăn chặn một đối thủ thực hiện hành động nào đó, cũng như việc sử dụng lực lượng quân sự chống lại một đối thủ để buộc họ từ bỏ một hành động mà họ đã bắt đầu.

Ý nghĩa của sự khác biệt khái niệm này giữa sự hiểu biết của Hoa Kỳ và Trung Quốc là Bắc Kinh coi răn đe và ép buộc là một phần của một liên tục – thay vì coi chúng là các hành động riêng biệt – hoặc xem răn đe như một lựa chọn “nhẹ nhàng” như Marcrum và Mulvaney đã chỉ ra trong bài báo gần đây của họ đăng trên ASPI.

Sự phân biệt này mở ra một câu hỏi rộng hơn về cách Trung Quốc hiểu những gì họ gọi là “răn đe tấn công” và “răn đe phòng thủ”. Răn đe tấn công đã được mô tả trong văn học chiến lược Trung Quốc là “sử dụng chiến tranh để ngăn chặn chiến tranh” bằng cách “sử dụng chiến tranh nhỏ để kiềm chế chiến tranh lớn” và “quan hệ biện chứng thống nhất giữa tấn công và phòng thủ”.

Theo Khoa học Chiến lược Quân sự: “Khi sự bùng nổ của chiến tranh đang cận kề, việc thực hiện răn đe chiến lược có thể nắm bắt cơ hội cuối cùng để tránh chiến tranh, hoặc giành thế chủ động trong chiến tranh, đặc biệt là trận đánh đầu tiên, và tạo ra một tình huống quân sự thuận lợi cho việc bước vào trạng thái chiến tranh.”

Sự chuẩn bị này để sử dụng lực lượng quân sự thực sự ở cường độ thấp nhằm đạt được những gì hệ thống Trung Quốc vẫn mô tả là “răn đe” là rất đáng chú ý. Điều này nhất quán với những lập luận nêu trên, khi xem răn đe và ép buộc trong cùng một liên tục khái niệm.

Thực tế, Khoa học Chiến lược Quân sự mô tả những hành động như vậy là “phòng thủ” về bản chất, vì răn đe của Trung Quốc được cho là bị kích thích bởi răn đe “tấn công” từ phương Tây.

Điều quan trọng là Trung Quốc có vẻ sẵn sàng leo thang quân sự để đạt được mục tiêu chính trị của mình về răn đe – mà không quá lo lắng rằng ngay cả một “cuộc chiến nhỏ” cũng có thể dẫn đến một cuộc chiến lớn hơn mà họ đang cố gắng ngăn chặn ngay từ đầu. Điều này có thể gây nguy hiểm.

Có nghĩa là, hệ thống Trung Quốc sẽ không xem việc xâm lược Đài Loan là một dạng “cuộc chiến nhỏ”, nhằm ngăn chặn một cuộc “chiến tranh tổng thể” hơn chống lại Hoa Kỳ.

Từ nghiên cứu của Trung Quốc, điều này có thể liên quan đến việc thể hiện sức mạnh thông qua các cuộc tấn công quân sự “chuẩn xác”, các cuộc đụng độ, hoặc thành công trong các “trận chiến nhỏ”. Các cuộc tấn công cảnh cáo nhân danh răn đe sẽ được nhắm đến các mục tiêu “tương đối cô lập và dễ chiến đấu, và sẽ không gây hại cho người dân”.

Điều này có lẽ nhắc đến các cuộc đụng độ cường độ thấp hơn (nhưng vẫn liên quan đến việc sử dụng lực lượng vũ trang một cách chủ động) để thể hiện quyết tâm trong một loạt các tình huống, chẳng hạn như ở Eo biển Đài Loan và Biển Đông.

Cuối cùng, sự chuẩn bị của Trung Quốc để xem xét việc sử dụng lực lượng quân sự thực sự trong khung răn đe cũng liên quan đến khái niệm rộng hơn trong hệ thống Trung Quốc về cái mà Bắc Kinh gọi là “răn đe chiến lược” (zhanlue weishe).

Khoa học Chiến lược Quân sự đã cập nhật chương về răn đe của mình dành cho “răn đe chiến lược” (khác với “răn đe quân sự”) và mô tả nó là “một phương thức đấu tranh quân sự thay thế” có “cường độ thấp hơn, chi phí thấp hơn, và nhiều không gian hành động hơn” so với chiến đấu thực sự.

Một nghiên cứu của Viện Khoa học Quân sự Trung Quốc năm 2019 thậm chí còn thẳng thắn hơn khi cho rằng khả năng răn đe chiến lược của Trung Quốc có thể được đánh giá qua khả năng của PLA trong việc “ngăn chặn bất kỳ ý định, lực lượng hoặc hành động nào của các thế lực thù địch ảnh hưởng hoặc cản trở việc đạt được các mục tiêu chiến lược của Trung Quốc”.

Đây là răn đe ở quy mô lớn: tức là răn đe dài hạn, dựa trên nền tảng rộng lớn và chiến lược, trái ngược với hình thức răn đe chiến thuật hẹp hơn, nhằm ngăn chặn hoặc dừng một hành động cụ thể nào đó của một đối thủ.

Tác Động Tiềm Tàng Của Các Khái Niệm Răn Đe Khác Nhau Giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ Trong Việc Định Hình Chiến Lược Đài Loan Của Bắc Kinh

Vậy thì, chúng ta nên định nghĩa sự khác biệt chính giữa những hiểu biết  của Hoa Kỳ và Trung Quốc về răn đe như thế nào?

Và liệu những khác biệt này có sâu sắc hơn do các quy tắc lý luận cơ bản mà các nhà lãnh đạo Trung Quốc áp dụng trong phản ứng của họ với thực tế chiến lược hiện tại hay không.

Như đã đề cập ở trên, chúng ta không thể tách biệt răn đe khỏi nơi nó nằm trong khung phân tích rộng hơn của chủ nghĩa duy vật lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng nếu chúng ta muốn có cái nhìn thực tế về cách mà Tập Cận Bình có khả năng nhìn nhận về các quyết định và hành vi của Hoa Kỳ.

Thứ nhất, Tập có khả năng nhìn nhận các hành động của Hoa Kỳ liên quan đến Đài Loan trong khung lịch sử Marxist-Leninist tổng thể rằng thời của Trung Quốc đã tới – bao gồm cả sứ mệnh hoàn thành thống nhất quốc gia và đảm nhận vai trò lãnh đạo toàn cầu lớn hơn như những người kế thừa chủ nghĩa Marx của thế kỷ 21.

Thứ hai, áp dụng các quy tắc của chủ nghĩa duy vật biện chứng, ông Tập hiện thấy Trung Quốc đang bị mắc kẹt trong một cuộc đấu tranh sâu sắc với Hoa Kỳ vì từ khoảng năm 2018-2019 (và chắc chắn từ năm 2022), Hoa Kỳ đã được xác định là “mâu thuẫn” lớn nhất của Trung Quốc. Giai đoạn 20 năm “cơ hội chiến lược” khi hòa bình và phát triển kinh tế được xem là “xu hướng chính” của thời đại giờ đã kết thúc. Và một kỷ nguyên mới về tự lực quốc gia và việc “bảo mật hóa” tất cả các lĩnh vực chính sách đã bắt đầu chuẩn bị cho đất nước đối phó với các tình huống tương lai.

Thứ ba, cảm nhận về sứ mệnh hiển nhiên của ông Tập, được củng cố bởi các quy trình phân tích của chủ nghĩa lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng, có khả năng dẫn đến mức độ tự tin quốc gia ngày càng cao trong việc đối phó với Hoa Kỳ trên nhiều lĩnh vực. Điều này là do niềm tin của Tập rằng Trung Quốc hiện là một lực lượng không thể cưỡng lại với sức gió mạnh mẽ của lịch sử ủng hộ.

Thứ tư, sự tự tin này sẽ được điều chỉnh bởi sự tôn trọng sâu sắc của Tập đối với năng lực quân sự của Hoa Kỳ, được thông báo bởi các phân tích liên tục của các quan chức về “sức mạnh quốc gia toàn diện” của hai nước. Chúng ta nên luôn nhớ rằng một đảng Lênin không bao giờ quên: tất cả “quyền lực chính trị đều xuất phát từ nòng súng”. Mặc dù chúng ta cũng nên nhớ rằng đảng Lênin này, trong khi tôn trọng sức mạnh quân sự của Hoa Kỳ, vẫn tiếp tục kết luận rằng cán cân quyền lực đang chuyển dịch theo hướng có lợi cho mình.

Thứ năm, trong khung phân tích tổng thể này, quan điểm của Trung Quốc về răn đe khác với Hoa Kỳ ở một điểm chính: Trung Quốc xem răn đe và ép buộc trong cùng một dòng chảy liên tục duy nhất thay vì các khái niệm chiến lược riêng biệt. Do đó, điều này có khả năng khuyến khích Trung Quốc di chuyển một cách liền mạch hơn trong việc leo thang, theo cách mà Hoa Kỳ sẽ coi là không tương thích với khái niệm niệm răn đe của chính mình. Rủi ro này có thể được làm trầm trọng thêm bởi cảm giác tự tin về lý tưởng và sự nhiệt thành truyền giáo thế tục của Tập Cận Bình.

Thứ sáu, sự khác biệt về khái niệm trong định nghĩa “răn đe” được củng cố bởi quan điểm của Trung Quốc, coi cả việc đe dọa và sử dụng một mức độ lực lượng quân sự nhất định là biểu hiện hợp pháp của răn đe. Vấn đề này càng trở nên phức tạp hơn do sự chấp nhận của Trung Quốc về việc leo thang quân sự có chủ đích như một hình thức răn đe hợp pháp. Hơn nữa, Trung Quốc còn ủng hộ ý tưởng sử dụng “chiến tranh nhỏ để kiềm chế chiến tranh lớn” như một cách thức răn đe hiệu quả hơn.

Cuối cùng, khung phân tích của Trung Quốc để hiểu và thực hiện một chiến lược răn đe khác biệt với Hoa Kỳ ở một mức độ rộng hơn nữa.

Theo đúng phương châm răn đe của Hoa Kỳ, Washington phát tín hiệu về mục đích răn đe tới lãnh đạo Trung Quốc về việc duy trì hiện trạng ở Đài Loan qua việc triển khai quân sự một cách thụ động, cách thức hoạt động của các lực lượng này và thông điệp ngoại giao. Mục tiêu là ngăn chặn Trung Quốc thực hiện một cuộc xâm lược. Ngược lại, Trung Quốc áp dụng chiến lược răn đe chủ động và quyết liệt hơn bằng cách triển khai quân đội và lực lượng bán quân sự ngày càng gần Đài Loan.

Điều này không chỉ đơn thuần là để thông báo cho Đài Loan về những gì Trung Quốc sẽ làm nếu Đài Loan tuyên bố độc lập trong tương lai (tức là để ngăn Đài Loan không làm điều đó, giống như lý thuyết răn đe cổ điển). Bắc Kinh còn sử dụng các biện pháp bán quân sự chủ động ngay trong hiện tại, thông qua chiến dịch vùng xám, nhằm thay đổi hiện trạng trên đất liền và trên biển xung quanh Đài Loan. Nói cách khác, đây là một dạng ép buộc chủ động để khiến Đài Loan dừng lại những hoạt động hiện tại và buộc họ phải ngồi vào bàn đàm phán theo điều kiện của Bắc Kinh.

Chúng ta thấy điều này, chẳng hạn, thông qua các hành động gần đây của lực lượng hải cảnh Trung Quốc quanh các hòn đảo ngoài khơi của Đài Loan, số lần máy bay Không quân Trung Quốc vi phạm đường trung tuyến Eo biển Đài Loan ngày càng tăng, cũng như các tàu Trung Quốc hiện đang vi phạm vùng 24 hải lý tiếp giáp ngoài khơi hòn đảo chính của Đài Loan.

Quan điểm của Trung Quốc về chiến lược răn đe của Hoa Kỳ đối với vấn đề Đài Loan

Điều này dẫn chúng ta đến câu hỏi không chỉ về cách Trung Quốc nhìn nhận học thuyết răn đe của mình đối với Đài Loan và Hoa Kỳ, mà còn về cách Bắc Kinh có thể phân tích và hiểu chiến lược, chính sách và hành động răn đe của Hoa Kỳ đối với Trung Quốc.

Như đã nêu ở trên, mặc dù việc hiểu sự khác biệt giữa quan điểm của Trung Quốc và Hoa Kỳ về răn đe là quan trọng, nhưng chúng ta không nên quên thực tế cơ bản là Trung Quốc rất tôn trọng sức mạnh quân sự của Hoa Kỳ. Thực tế này, theo nhiều cách, chính là hình thức răn đe mạnh mẽ nhất.

Trung Quốc đã nghiên cứu kỹ lưỡng các cuộc đổ bộ lớn của Hoa Kỳ trong Thế chiến II ở cả Châu Âu và Thái Bình Dương. Họ cũng đã xem xét các cuộc đổ bộ ở Incheon tại Hàn Quốc và việc sử dụng sức mạnh quân sự của Hoa Kỳ trong hai cuộc chiến tranh vùng Vịnh.

Sự am hiểu sâu sắc về sức mạnh và các tiền lệ của việc sử dụng sức mạnh quân sự của Hoa Kỳ vẫn là yếu tố chính trong chiến lược của Trung Quốc đối với Hoa Kỳ và Đài Loan. Nếu không phải vậy, Trung Quốc đã hành động từ lâu để chiếm Đài Loan bằng vũ lực.

Lịch sử của Đảng Cộng sản Trung Quốc có nhiều câu chuyện về việc Mao Trạch Đông đã đưa ra các quyết định chiến lược cốt lõi vào năm 1947-48 để chống lại Quốc dân Đảng trong cuộc Nội chiến lần thứ hai, bị ảnh hưởng bởi quan điểm về sức mạnh quân sự của Hoa Kỳ và ý chí của họ để can thiệp. Mao Trạch Đông cũng đưa ra các quyết định về sự can thiệp của Trung Quốc vào cuộc chiến tranh Triều Tiên. Đặc biệt, quyết định của Hoa Kỳ triển khai Hạm đội Thứ Bảy đến Eo biển Đài Loan vào năm 1950 đã có tác động răn đe lớn đối với kế hoạch của ông về việc chiếm Đài Loan trong lúc Quốc dân Đảng vẫn đang trong quá trình củng cố quyền kiểm soát trên đảo.

Do đó, lãnh đạo Trung Quốc có cái nhìn thực tế rõ ràng về việc sự hiện diện hoặc không của sức mạnh quân sự lớn của Hoa Kỳ có thể có ý nghĩa như thế nào. Đây là lý do tại sao ĐCSTQ tiếp tục thực hiện các tính toán chi tiết về sự thay đổi trong cán cân quân sự khu vực và toàn cầu để đưa ra các quyết định chiến lược cơ bản của mình – cả về Đài Loan và các vấn đề khác.

Tuy nhiên, trong khi phân tích về những yếu tố cơ bản nhất của sự răn đe (bao gồm sức mạnh quân sự của Hoa Kỳ và ý chí chính trị để sử dụng nó), chúng ta cũng cần hiểu cách Trung Quốc có thể hiểu chiến lược răn đe của Hoa Kỳ theo cách khác với chúng ta.

Đầu tiên, như đã nêu ở trên, những gì chúng ta có thể xem là một tập hợp các triển khai định kỳ, dự đoán được và minh bạch đến khu vực chỉ đơn thuần là biểu hiện của nhiệm vụ răn đe thông thường của chúng ta, Bắc Kinh, nhìn qua lăng kính học thuyết của riêng họ, có thể xem chúng như là nằm ở phía cưỡng bức trong tiếp cận cưỡng bức-răn đe-đe doạ trừng phạt.

Nói cách khác, trong khi chúng ta có thể xem răn đe như bao gồm một tập hợp các tùy chọn mềm hơn để phản ứng lại các hành động của Trung Quốc đối với Đài Loan, và cách xa việc sử dụng cứng bất kỳ hình thức cưỡng bức quân sự nào, Bắc Kinh cũng có thể nhìn nhận các hành động này trong khung phân tích của mình như là cưỡng bức.

Thứ hai, theo nghiên cứu của CNA về nhiều ý nghĩa của từ “weishe” trong nghiên cứu của Trung Quốc, có thể có những hiểu lầm khác về khái niệm răn đe của Hoa Kỳ.

Ngoài việc “weishe” có thể hiểu là “răn đe” hoặc “cưỡng bức”, nó còn có thể mang các ý nghĩa khác như “ngăn chặn” (ezhi) và “đàn áp” (qiangpo).[1]

Tư duy chiến lược phương Tây chưa bao giờ đồng nhất răn đe với ngăn chặn.

Các học giả phương Tây quen thuộc với học thuyết ngăn chặn của Kennan đối với Liên Xô sẽ thấy rằng chiến lược của Hoa Kỳ và các đồng minh đối với Trung Quốc trong 45 năm qua không có gì giống như chiến lược ngăn chặn đối với Liên Xô.

Chính sách của Hoa Kỳ đối với Trung Quốc, dù dưới chính quyền Đảng Cộng hòa hay Đảng Dân chủ, không nhằm cắt đứt Trung Quốc khỏi kinh tế, tài chính hoặc công nghệ toàn cầu. Mặc dù đã có một số biện pháp hạn chế vì lý do an ninh quốc gia, nhưng có sự khác biệt lớn giữa giảm rủi ro và tách biệt, và giữa giảm rủi ro và ngăn chặn.

Hơn nữa, Hoa Kỳ không chiến đấu với Trung Quốc qua các cuộc chiến tranh ủy nhiệm trên toàn cầu như đã xảy ra trong Chiến tranh Lạnh với Liên Xô. Cả Hoa Kỳ và các đồng minh cũng không phản đối việc các nước láng giềng của Trung Quốc giải quyết hòa bình các tranh chấp biên giới mà không dùng vũ lực – dù là ở Biển Đông, trên biên giới Trung-Ấn, hay ngay cả đối với Đài Loan.

Vậy liệu Bắc Kinh, dù có những thiếu sót trong lập luận về ngăn chặn, có thực sự tin rằng họ đang bị ngăn chặn không? Hay đây chỉ là một mưu đồ tuyên truyền dành cho các dư luận trong nước và một số dư luận quốc tế nhất định ở Phương Nam? Điều này không thể biết chắc, nhưng có thể là sự kết hợp của cả hai.

Điều này bởi vì học thuyết mới của Tập về tự lực tự cường quốc gia, cùng với “an ninh hóa” chính sách kinh tế của Trung Quốc, dường như đang chuẩn bị cho khả năng có thể bị áp dụng các lệnh trừng phạt quốc tế trong trường hợp có tình huống lớn về Đài Loan.

Dù thực tế nội bộ là gì, chúng ta cần nhớ rằng khi chúng ta nói về sự răn đe như một chính sách hợp lý đối với Trung Quốc về vấn đề Đài Loan, có thể khái niệm đó đang được hiểu theo một ý nghĩa rộng hơn và hung hăng hơn so với những gì chúng ta ở phương Tây nghĩ.

Điều này không phải là lý do để thay đổi chính sách. Thực tế, chúng ta không nên thay đổi. Tuy nhiên, đây là lý do cần có các “ranh giới” giao tiếp quân sự nhằm giảm thiểu nguy cơ hiểu lầm cơ bản.

Kết luận

Lịch sử cho thấy sự răn đe do Hoa Kỳ dẫn đầu vẫn duy trì hiệu quả tại Eo biển Đài Loan. Đây là thành tựu của các chính quyền Hoa Kỳ qua các thời kỳ. Tuy nhiên, câu hỏi về tương lai vẫn còn bỏ ngỏ.

Mục đích của bài giảng này là làm rõ cách Trung Quốc nhìn nhận các vấn đề phức tạp về sự răn đe, sự khác biệt giữa quan điểm của Trung Quốc và Hoa Kỳ, và cách những điều này có thể được diễn giải thành cách hiểu lẫn nhau  liên quan đến Đài Loan.

Bài giảng này vẫn chưa giải quyết những câu hỏi sau:

– Các chính sách hiện tại có đủ khả năng để Hoa Kỳ tiếp tục thành công  trong chiến lược răn đe Trung Quốc trong tương lai không?

– Có những khoảng trống nào trong chiến lược răn đe tổng thể? Và

– Làm thế nào để lấp đầy những khoảng trống đó?

– Trung Quốc có tin rằng họ đang tăng cường răn đe Hoa Kỳ trong khung nhìn của chính họ không?

– Và điều này có thể dẫn dắt chiến lược của Trung Quốc đến đâu trong tương lai?

Đây là những câu hỏi cốt lõi cho các cuộc thảo luận về an ninh quốc gia ở Hoa Kỳ, Đài Loan, giữa các đồng minh – và, đúng vậy, tại Bắc Kinh – nếu chúng ta muốn duy trì hòa bình. Những câu hỏi này không chỉ quan trọng mà còn rất khó giải quyết và đang trở nên cấp bách hơn bao giờ hết.

Chiến lược của Trung Quốc trong các chiến dịch vùng xám qua Eo biển Đài Loan và Biển Đông và Biển Hoa Đông đang làm nổi bật những câu hỏi này một cách rõ ràng hơn.

Tất cả những điều này là các “biện pháp dưới ngưỡng chiến tranh”, mà Kennan có thể nhắc nhở chúng ta từ loạt bài giảng gốc của ông vào năm 1946. Đây cũng là những câu hỏi quan trọng mà cả Kissinger và Kennan, nếu còn sống ngày nay, có thể sẽ yêu cầu chúng ta giải quyết và tìm ra giải pháp nhanh chóng để tiếp tục tránh một cuộc chiến mà tôi, ít nhất, tin rằng hoàn toàn có thể tránh được.

———-

Chú thích của người hiệu đính:

Bản dịch tôn trọng nguyên tác và giữ nguyên cách hiểu của tác giả về các thuật ngữ quân sự Trung Quốc. Mặt khác, theo nghĩa Hán Việt, “weishe” có nghĩa là “uy hiếp”, “ezhi” có nghĩa là “át chế”, và “qiangpo” có nghĩa là “cưỡng bách”.

Cựu Thủ tướng Úc hiện đang là Đại sứ Úc tại Hoa Kỳ. Nguyễn Phương Ngân và ThS. Hương Nguyễn lần lượt là ứng viên và cộng tác viên Dự án Đại Sự Ký Biển Đông. Bản dịch có sự hỗ trợ của Nguyễn Huy Hoàng (cộng tác viên Dự án Đại Sự Ký Biển Đông), các anh chj Quốc Dũng Hoàng và Hoàng Trương trong dịch thuật một số thuật ngữ. Có thể đọc bài viết gốc ở đây: https://usa.embassy.gov.au/ndu24

Nguyên tắc hoạt động của Dự án Đại Sự Ký Biển Đông.

—————

Dự án Đại Sự Ký Biển Đông tồn tại dựa trên tài trợ của cộng đồng. Nếu quý độc giả muốn có một nguồn thông tin tri thức khách quan, đa chiều, hệ thống hoá và có chiều sâu chuyên môn, dựa trên dữ liệu (facts-based), Dự án Đại Sự Ký Biển Đông là một địa chỉ mà mọi người có thể tin tưởng. Hãy chung tay cùng với chúng tôi duy trì Dự án bằng cách tài trợ cho Dự án, và khuyến khích bạn bè, đồng nghiệp cùng tài trợ Dự án. Xem hướng dẫn tài trợ ở đây: https://dskbd.org/tai-tro-cho-du-an/. Báo cáo tài chính sẽ được tổng kết vào cuối năm. Chúng tôi xin trân trọng cảm ơn.

Leave a comment

This site uses Akismet to reduce spam. Learn how your comment data is processed.