(Trích trong Chuyên mục “Mỗi tuần một chương sách” của Bản Tin Biển Đông Số 136. Truy cập tại https://dskbd.org/2024/01/17/ban-tin-bien-dong-so-136-phan-ii/)
Gregory B. Poling (2022). On Dangerous Ground – America’s Century In the South China Sea. Oxford University Press Inc.
Chương 2: America and the Free Seas, Part I: 1930–1966
Chương sách tiếp thảo luận về quan điểm của Hoa Kỳ về biển cả, trong giai đoạn từ năm 1930 – 1966. Trước Thế chiến thứ hai, Biển Đông mở cửa cho tất cả các quốc gia. Tuy nhiên, những tiến bộ trong công nghệ và sự trỗi dậy của các quốc gia ven biển mới đã thách thức quy định truyền thống về giới hạn lãnh hải 3 hải lý. Hoa Kỳ bị mắc kẹt giữa mong muốn tự do hàng hải và nhu cầu đòi hỏi tài nguyên, điều này khiến Hoa Kỳ mong muốn đóng vai trò định hình luật biển quốc tế dẫn đến sự tham gia của quốc gia này vào các tranh chấp ở Biển Đông.
Năm 1907, Argentina là nước đầu tiên tuyên bố vùng đánh cá mở rộng đến 10 hải lý, vượt qua giới hạn kiểm soát 3 hải lý. Từ khoảng năm 1923 – 1935, các tuyên bố mở rộng lần lượt được đưa ra vào bởi Colombia với 12 hải lý, Liên Xô với 12 hải lý, Mexico với 9 hải lý. Tại Hội nghị về phân định ranh giới biển vào năm 1930, 48 quốc gia thành viên đã thảo luận về việc có nên mở rộng giới hạn lãnh hải hay không và quy mô của một “khu vực tiếp giáp”. Hoa Kỳ đóng vai trò quan trọng trong cuộc thảo luận này, được cho là dựa theo quan điểm của Tổng thống Franklin Delano Roosevelt, nhằm bảo vệ các lợi ích của Hoa Kỳ về tài nguyên thiên nhiên mà không phải an ninh quốc gia. Các đề xuất đầy tham vọng của Roosevelt như tuyên bố một vùng “lãnh hải” dài 200 hải lý để đánh bắt cá ở bờ biển Thái Bình Dương đã vấp phải sự phản đối trong nội bộ do lo ngại về những hậu quả quốc tế và xung đột với các thỏa thuận đánh cá hiện có với Canada và Newfoundland. Đến năm 1945, việc Tổng thống Harry Truman ký Tuyên bố Truman đã nhận được sự phản đối từ các đồng minh và cộng đồng quốc tế.
Tác giả thảo luận về quan điểm của các quốc gia trong hoạt động đánh bắt cá ngoài lãnh hải. Năm 1947, thay vì quan tâm thực hiện Tuyên bố về nghề cá, Hoa Kỳ tập trung vào các phương pháp tiếp cận khu vực để quản lý hoạt động đánh bắt cá ngoài lãnh hải. Tuy nhiên, hợp tác đa phương gặp nhiều khó khăn, đặc biệt là ở Châu Mỹ Latinh, ví dụ như tranh chấp giữa Mexico và Hoa Kỳ. Ở khu vực Bắc Đại Tây Dương, các hoạt động hợp tác đa phương thuận lợi hơn với sự ra đời của Công ước Thủy sản Tây Bắc Đại Tây Dương năm 1949. Ở phía Bắc Thái Bình Dương, Canada, Nhật Bản và Hoa Kỳ đã đàm phán một công ước nghề cá vào năm 1952 để quản lý cá hồi và các loài cá khác cho đến khi một công ước mới được thay thế với sự tham gia của Nga và Hàn Quốc.
Từ năm 1950 đến năm 1951, nhiều vùng biển ở Châu Mỹ Latinh như Nicaragua, Brazil, Ecuador, Honduras, El Salvador và Hàn Quốc tuyên bố chủ quyền đối với thềm lục địa. Hoa Kỳ và Vương quốc Anh nằm trong số những quốc gia đầu tiên tuyên bố quyền đối với tài nguyên dưới đáy biển, trong đó Vương quốc Anh tuyên bố có thềm lục địa cho mình và nhiều vùng phụ thuộc của nước này ở vùng Caribbe từ năm 1948 đến năm 1950. Sau đó, cộng đồng quốc tế cũng làm theo và nhất trí chung rằng các quốc gia nên kiểm soát tài nguyên ở thềm lục địa của mình. Vào năm 1956, Tổ chức các Quốc gia Châu Mỹ đã triệu tập một hội nghị đặc biệt để thảo luận về thềm lục địa, góp phần vào nội dung của báo cáo cuối cùng về lãnh hải và biển. Báo cáo này của Ủy ban Luật pháp Quốc tế bao gồm 73 điều về tập quán quốc tế và thực tiễn quốc gia liên quan đến lãnh hải, vùng tiếp giáp, thềm lục địa và biển cả. Vấn đề quan trọng nhất mà các thành viên không đạt được thỏa thuận là chiều rộng của lãnh hải. Ủy ban khuyến nghị Liên Hợp Quốc tổ chức một hội nghị quốc tế để thảo luận về luật biển và soạn thảo các công ước liên quan, cuối cùng dẫn đến sự ra đời của Hội nghị Liên Hợp Quốc về Luật Biển lần đầu tiên (UNCLOS I).
Hội nghị UNCLOS I được tổ chức từ Tháng 2 năm 1958 đến Tháng 4 năm 1958 tại Geneva với sự tham gia của 86 quốc gia. Ban Thư ký Liên Hợp Quốc đã thiết lập các quy tắc thủ tục, thành lập bốn ủy ban để xem xét báo cáo và ủy ban thứ năm để giải quyết vấn đề tiếp cận biển của các quốc gia không giáp biển. Cuộc họp với 3 nhóm chính là Hoa Kỳ và phương Tây, khối Liên Xô và nhóm các quốc gia mới độc lập ở Châu Phi và Châu Á. Phía Hoa Kỳ đặt ra giới hạn hẹp về lãnh hải và vùng đánh cá, bác bỏ bất kỳ quyền tài phán nào của quốc gia ven biển vượt quá khu vực tiếp giáp 12 hải lý. Dù vậy, một số quốc gia Châu Âu vẫn giữ giới hạn lãnh hải là 3 hải lý. Khối Liên Xô với 11 phiếu kiên quyết bảo vệ lãnh hải 12 hải lý và phản đối việc giải quyết tranh chấp bắt buộc. Còn các quốc gia mới độc lập ở Châu Phi và Châu Á yêu cầu thay đổi luật tập quán quốc tế do các nước thực dân trước đây tạo ra cũng như phản đối việc giải quyết tranh chấp bắt buộc. Ở khu vực Mỹ Latinh, các quốc gia đưa ra nhiều quan điểm khác nhau và không hòa hợp chặt chẽ với bất kỳ phe phái chính nào. Vượt qua những bất đồng, UNCLOS I đã đạt được thỏa thuận về bốn Công ước, nổi bật nhất là Công ước về Lãnh hải và Vùng tiếp giáp lãnh hải nhằm xác nhận rằng các quốc gia có chủ quyền đối với lãnh hải tính từ bờ biển và lãnh thổ đảo, đồng thời đặt ra phương pháp thiết lập đường cơ sở và phân định ranh giới chồng chéo giữa các quốc gia. Đáng chú ý, Công ước cho phép các đường cơ sở thẳng, bao gồm cả các vịnh lịch sử có chiều dài lên tới 24 hải lý. Với Công ước về Biển cả, các bên nhất trí rằng biển cả mở cửa cho tất cả các quốc gia với bốn quyền tự do: hàng hải, đánh cá, hàng không và đặt dây cáp và ống dẫn ngầm dưới biển. Nỗ lực của Liên Xô cấm thử hạt nhân trên biển vấp phải sự phản đối mạnh mẽ từ Hoa Kỳ và Châu Âu. Với Công Ước về Nghề Cá và Bảo Tồn Tài nguyên Sống ở Hải Phận Quốc tế, Công ước tuyên bố trách nhiệm của tất cả các quốc gia là ngăn chặn việc đánh bắt quá mức và bảo tồn “tài nguyên sinh vật của biển cả”. Còn Công ước về Thềm lục địa quy định quyền của các quốc gia được khai thác tài nguyên khoáng sản ở thềm lục địa ngoài lãnh hải và được độc quyền đối với đáy biển ở độ sâu 200 mét hoặc độ sâu tối đa có thể khai thác tài nguyên. Dù vậy, Hội nghị không giải quyết được về chiều rộng lãnh hải và tranh chấp liên quan về vùng đánh bắt cá.
Đọc chương sách ở đây. Đặt mua sách ở đây.
Nguyên tắc hoạt động của Dự án Đại Sự Ký Biển Đông.
—————
Dự án Đại Sự Ký Biển Đông tồn tại dựa trên tài trợ của cộng đồng. Nếu quý độc giả muốn có một nguồn thông tin tri thức khách quan, đa chiều, hệ thống hoá và có chiều sâu chuyên môn, dựa trên dữ liệu (facts-based), Dự án Đại Sự Ký Biển Đông là một địa chỉ mà mọi người có thể tin tưởng. Hãy chung tay cùng với chúng tôi duy trì Dự án bằng cách tài trợ cho Dự án, và khuyến khích bạn bè, đồng nghiệp cùng tài trợ Dự án. Xem hướng dẫn tài trợ ở đây: https://dskbd.org/tai-tro-cho-du-an/. Báo cáo tài chính sẽ được tổng kết vào cuối năm. Chúng tôi xin trân trọng cảm ơn.
