(Trích trong Chuyên mục “Mỗi tuần một chương sách” của Bản Tin Biển Đông Số 132. Truy cập tại https://dskbd.org/2023/12/05/ban-tin-bien-dong-so-132-phan-ii/)
Edward Miller (2023) Past Imperfect- Peacemaking, Legitimacy, and Reconciliation in US-Vietnam Relations, 1975–2022. Trong Börje Ljunggren & Dwight H. Perkins (Eds.), Vietnam – Navigating A Rapidly Changing Economy, Society And Political Order, (pp 396-417). Cambridge: Harvard University Press.
Chương sách xem xét lịch sử quan hệ Hoa Kỳ-Việt Nam sau năm 1975 như một quá trình kiến tạo hòa bình còn nhiều bất đồng và vẫn chưa hoàn thiện. Tác giả khám phá những nhân tố đã định hình tiến trình hòa giải giữa hai nước, những nỗ lực và thách thức trong quá trình chuyển từ chiến tranh sang hòa bình. Nghiên cứu của tác giả dựa trên lý thuyết từ công trình của Charles Kupchan nghiên cứu khả năng các quốc gia thù địch chuyển từ chiến tranh sang hòa bình được hay không và bằng cách nào. Theo Kupchan, con đường dẫn đến hòa bình bắt đầu bằng các biện pháp xây dựng lòng tin và thể hiện sự kiềm chế đối với các vấn đề ít rủi ro. Những nỗ lực ban đầu nhằm điều chỉnh lẫn nhau, nếu thành công, có thể mở đường cho sự hội nhập kinh tế và xã hội chặt chẽ hơn. Một khi mối liên kết phụ thuộc lẫn nhau đủ mạnh mẽ, hai bên có thể chuyển sang giai đoạn cuối cùng: xây dựng những câu chuyện và bản sắc mới, trong đó những đối kháng cũ được thay thế bằng tình đồng chí và tình đoàn kết. Trong mô hình này, việc kiến tạo hòa bình đạt đến đỉnh cao trong việc tạo dựng ký ức, khi các cựu thù cùng nhau sắp xếp lại và đạt được thống nhất trong những câu chuyện về quá khứ bạo lực mà trước đây vốn khác biệt giữa hai bên.
Chương sách bắt đầu bằng việc thuật lại một hội thảo trực tuyến được tổ chức vào tháng 7 năm 2020, đánh dấu 25 năm kể từ khi thiết lập quan hệ ngoại giao bình thường giữa Hoa Kỳ và Việt Nam. Tác giả chỉ ra rằng ngay cả trước khi Chiến tranh Việt Nam kết thúc vào năm 1975, các nhà lãnh đạo Hoa Kỳ và Việt Nam đã có những tuyên bố thể hiện sự quan tâm đến việc hòa giải. Nhưng không bên nào sẵn sàng kiến tạo hoà bình bằng mọi giá. Tác giả chia lịch sử quan hệ Hoa Kỳ Việt Nam làm 3 giai đoạn. Giai đoạn đầu tiên là ngay sau chiến tranh năm 1975. Chỉ một tuần sau khi kết thúc chiến tranh, vào ngày 07 tháng 5 năm 1975, Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã gửi thông điệp tới chính phủ Hoa Kỳ rằng Hà Nội mong muốn có mối quan hệ tốt đẹp và sớm bình thường hoá quan hệ song phương với Hoa Kỳ. Nhưng hai nước kể từ đó đã bước vào một mối quan hệ phức tạp và đối kháng lẫn nhau, cách giải thích khác nhau về “hòa giải” và những bất bình lịch sử chưa được giải quyết như các vấn đề bồi thường chiến tranh, viện trợ và vấn đề người Mỹ mất tích (MIA), những sự khác biệt trong kỳ vọng và tác động của các yếu tố bên ngoài như xung đột Khmer Đỏ và những biến động ở Trung Quốc và Liên Xô, tất cả những nhân tố này đã gây ra những trở ngại đáng kể cho việc đạt được một nền tảng cho hòa bình bền vững và lâu dài.
Giai đoạn thứ hai, từ năm 1979 tới năm 1995, mà tác giả đặt tựa đề là con đường dài tới bình thường hoá. Đây là giai đoạn đã xảy ra nhiều biến cố trọng đại như việc Việt Nam đưa quân vào và chiếm đóng tại Campuchia, khủng hoảng kinh tế trong nước, cuộc di tản khổng lồ của người chế độ cũ, và những biến cố này đều ảnh hưởng đến tính hợp pháp của Đảng Cộng sản Việt Nam. Hoa Kỳ đã cùng với Trung Quốc và các nước ASEAN lên án và yêu cầu Việt Nam rút quân khỏi Campuchia. Đối ngoại bị cô lập, đối nội Việt Nam rơi vào khủng hoảng kinh tế trầm trọng với nền kinh tế kế hoạch tập trung sai lầm. Sự leo thang suy thoái kinh tế với tình trạng thiếu hụt thực phẩm ngày càng lan rộng đã dẫn tới một cú sốc thứ ba đối với đất nước còn chưa vực dậy sau sự tàn phá của chiến tranh. Đó là cuộc tị nạn khổng lồ với hàng chục ngàn người bất chấp nguy hiểm vượt Biển Đông thoát khỏi Đông Dương, và tới mùa thu năm 1978 lại tiếp tục dòng người gốc Hoa được coi là mục tiêu của các cuộc trấn áp tư sản của Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN).
Những cuộc khủng hoảng liên tiếp này đã đặt ra một thách thức sâu sắc đối với tính hợp pháp của vai trò cầm quyền của ĐCSVN. Đối với hàng triệu người Việt Nam, những năm tháng này được nhớ đến như thời kỳ “bao cấp” – một thời kỳ thiếu thốn, khó khăn và những lời hứa không được thực hiện. Kể từ năm 1978, cán cân quyền lực chính trị ở Hà Nội đã nghiêng về phe “quân đội trên hết” của Đảng. Được lãnh đạo bởi Lê Duẩn, Lê Đức Thọ và Phạm Hùng, nhóm lãnh đạo này ủng hộ liên kết với khối Xô Viết, với mục tiêu giành chiến thắng quân sự trước Trung Quốc. Nhưng đến năm 1985, sau một cuộc cải cách tiền tệ thất bại khác và một đợt siêu lạm phát mới, tính hợp pháp của Đảng dường như trở nên mong manh hơn bao giờ hết. Điều này tạo cơ hội cho các quan chức có tư tưởng cải cách như Võ Văn Kiệt và Nguyễn Cơ Thạch kêu gọi “tư duy mới” trong cả chính sách đối nội và đối ngoại. Những nỗ lực này, cùng với cái chết của Lê Duẩn vào giữa năm 1986, đã mở đường cho thời kỳ “Đổi Mới” với những thay đổi chính sách sâu rộng. Những cải cách Đổi Mới đã giúp Đảng vượt qua những làn sóng chấn động do sự sụp đổ của chủ nghĩa cộng sản ở Đông Âu trong giai đoạn 1989–91. Những cải cách cũng đưa Việt Nam hướng tới một mô hình phát triển toàn cầu hóa và thoát khỏi mô hình hai phe đã xác định thế giới quan của Đảng kể từ khi thành lập.
Những biến động ở Đông Dương cũng tác động đến chính sách bình thường hoá quan hệ với Việt Nam của các chính quyền Hoa Kỳ, nhưng theo các cách khác nhau với những ưu tiên khác nhau. Phải đến thời George H.W. Bush mới có những biến chuyển tích cực và coi việc bình thường hoá quan hệ có thể xóa bỏ những ký ức đau buồn về thất bại của Hoa Kỳ.
Vào thời điểm George H. W. Bush nhậm chức Tổng thống Hoa Kỳ năm 1989, ĐCSVN đã thay đổi đáng kể cách tiếp cận của mình đối với cả chính sách đối nội và đối ngoại. Ngoài việc tạo dựng hòa bình ở Campuchia và tìm kiếm sự tương thích với ASEAN, Hà Nội còn theo đuổi và đạt được việc khôi phục hoàn toàn quan hệ ngoại giao với Trung Quốc vào năm 1991. Đối với Hoa Kỳ, Việt Nam cũng bày tỏ sự sẵn sàng hợp tác và công bố chính sách “kết bạn” với tất cả các nước trên thế giới – một động thái dường như đánh dấu sự từ bỏ chính thức thế giới quan về mô hình hai phe.
Các động thái của Việt Nam cho thấy rằng thời điểm có thể đã chín muồi cho một nỗ lực mới nhằm bình thường hóa quan hệ với Washington. Nhưng Washington vẫn chưa sẵn sàng trước sức ép của làn sóng phản đối của những người muốn vấn đề MIA phải được giải quyết triệt để. Năm 1991, chính quyền ông Bush đã vạch ra một “lộ trình” mới để bình thường hóa quan hệ Mỹ-Việt. Nhưng phải đến năm nhưng phải đến thời của Bill Clinton mới có những bước thay đổi mang tính quyết định. Vào ngày 11 tháng 7 năm 1995, Clinton tuyên bố Hoa Kỳ và Việt Nam đã đồng ý bình thường hoá quan hệ chính thức. Nhưng ông cũng không quên một lần nữa khẳng định sự đúng đắn về mặt đạo đức của việc Hoa Kỳ can thiệp vào chiến tranh Việt Nam, trái ngược với phiên bản câu chuyện của phía Việt Nam.
“Bất kể lịch sử phán xét thế nào về những quyết định chính trị liên quan đến chiến tranh, những quân nhân Hoa Kỳ đã chiến đấu dũng cảm và hy sinh ở Việt Nam đều có động cơ cao cả. Họ đấu tranh vì tự do và độc lập của dân tộc Việt Nam. Ngày nay người Việt Nam đã được độc lập và chúng tôi tin rằng việc bình thường hóa sẽ giúp mở rộng phạm vi tự do ở Việt Nam,” Tổng thống Clinton khẳng định.
Bình thường hóa quan hệ, bởi vậy là một điểm mốc quan trọng nhưng mới chỉ đang ở bước xây dựng lòng tin và thể hiện sự kiềm chế có đi có lại. Chỉ sau 1995, hai nước mới chuyển sang giai đoạn hoà bình tiếp theo, cùng đồng tác giả biên soạn câu chuyện mới về chiến tranh ở Việt Nam và ý nghĩa lịch sử của nó đối với cả hai nước.
Giai đoạn thứ ba, từ năm 1995 tới năm 2022, quan hệ Hoa Kỳ-Việt Nam đã trải qua những thay đổi to lớn về ngoại giao, thương mại, đầu tư vốn, giáo dục và trao đổi văn hóa. Các kết nối song phương đã phát triển mạnh mẽ, dẫn đến những tương tác đáng kể về kinh tế, xã hội và văn hóa giữa hai nước. Sự hợp tác cũng được tạo điều kiện thuận lợi bởi người Mỹ gốc Việt, những người đã đầu tư nhiều vốn kinh tế và văn hóa vào Việt Nam, sự nổi tiếng ngày càng tăng của Hoa Kỳ trong mắt người dân Việt Nam bình thường, cũng như mối quan ngại chung của cả hai bên đang ngày càng được củng cố về Trung Quốc và lập trường hung hăng của nước này ở Biển Đông. Tác động tổng hợp của những xu hướng này là làm tăng cảm giác tin tưởng lẫn nhau giữa hai chính phủ, cuối cùng dẫn đến việc cùng tạo ra những câu chuyện mới về hòa giải, tiến bộ và “di sản chiến tranh”. Tuy nhiên, bất chấp những tiến bộ đáng chú ý, sự hòa giải Mỹ-Việt vẫn chưa thực sự hoàn thiện. Những mối quan ngại lâu nay về đạo đức, tính hợp pháp và ý nghĩa lịch sử của cuộc chiến vẫn chưa được thực sự giải quyết.
Tóm lại, động cơ và hành động của các nhà lãnh đạo Hoa Kỳ và Việt Nam đã ảnh hưởng và định hình tiến trình hòa giải giữa hai nước. Các nhà lãnh đạo Hoa Kỳ quan tâm đến việc khôi phục danh tiếng đạo đức của Hoa Kỳ và đấu tranh cho những giá trị nhân quyền phổ quát, trong khi các nhà lãnh đạo Việt Nam tìm cách vượt qua cuộc khủng hoảng về tính hợp pháp và hiện đại hóa đất nước thông qua các cải cách kinh tế và chính trị. Những mối quan tâm đối nội này đã ảnh hưởng đến cách tiếp cận của họ đối với các nỗ lực hòa giải và tác động đến tốc độ cũng như chiều sâu của quá trình hòa giải giữa hai quốc gia, khiến cho quá trình này vẫn chưa thực sự đi được đến tận cùng. Nhưng tác giả tin rằng trong một thời đại mà sự cạnh tranh và xung đột trong và ngoài biên giới quốc tế dường như ngày càng gia tăng, người Mỹ và người Việt Nam sẽ nỗ lực hết sức để trân trọng nền hòa bình mà họ đã cùng nhau xây dựng và cân nhắc cách họ có thể làm cho hòa bình trở nên mạnh mẽ hơn nữa.
Xem nội dung chương sách ở đây.
Lời kết: Đây là chương cuối cùng trong cuốn sách “Vietnam – Navigating a rapidly changing economy, society and political order” mà chúng tôi lựa chọn để tóm tắt, phù hợp với phạm vi trọng tâm của Dự án Đại Sự Ký Biển Đông. Dù vậy, đó chỉ là một phần của bức tranh Việt Nam và trong cuốn sách còn nhiều bài viết hay khác, bao trùm những vấn đề quan trọng khác của Việt Nam mà độc giả có thể sẽ muốn quan tâm và tìm đọc.
Xem giới thiệu về cuốn sách ở đây.
Xem hướng dẫn cách truy cập ở đây.
Nguyên tắc hoạt động của Dự án Đại Sự Ký Biển Đông.
—————
Dự án Đại Sự Ký Biển Đông tồn tại dựa trên tài trợ của cộng đồng. Nếu quý độc giả muốn có một nguồn thông tin tri thức khách quan, đa chiều, hệ thống hoá và có chiều sâu chuyên môn, dựa trên dữ liệu (facts-based), Dự án Đại Sự Ký Biển Đông là một địa chỉ mà mọi người có thể tin tưởng. Hãy chung tay cùng với chúng tôi duy trì Dự án bằng cách tài trợ cho Dự án, và khuyến khích bạn bè, đồng nghiệp cùng tài trợ Dự án. Xem hướng dẫn tài trợ ở đây: https://dskbd.org/tai-tro-cho-du-an/. Báo cáo tài chính sẽ được tổng kết vào cuối năm. Chúng tôi xin trân trọng cảm ơn.
