Kiến tạo Những Nhà Vô Địch Mới: Tổng Bí Thư Tô Lâm Chuẩn Bị Cho Một Việt Nam Bứt Phá Dựa Vào Khu Vực Kinh Tế Tư Nhân

Tác giả: Nguyễn Khắc Giang | Fulcrum ngày 19 tháng 8 năm 2025

Biên dịch: Lê Bá Nhật Thắng | Hiệu đính: Nguyễn Khắc Giang

Nghị quyết 68, được Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam ban hành vào tháng 5 năm 2025, đánh dấu một trong những sự chuyển dịch chính sách kinh tế mạnh mẽ nhất của Việt Nam kể từ Đổi mới. Nghị quyết đã nâng khu vực kinh tế tư nhân từ đối tác thứ yếu lên thành “một động lực quan trọng nhất” của nền kinh tế. Tuy nhiên, sự thành công phụ thuộc vào việc vượt qua những lợi ích nhóm cố hữu, quản lý sự khác biệt về mặt ý thức hệ trong nội bộ Đảng, và đảm bảo việc thực thi kỷ luật các cải cách.

Giới thiệu

Vào tháng 5 năm 2025, Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN) dưới sự lãnh đạo của Tổng Bí thư (TBT) Tô Lâm đã thông qua Nghị quyết 68 về phát triển khu vực kinh tế tư nhân, đánh dấu một sự chuyển dịch chính sách mạnh mẽ theo hướng phát triển kinh tế dựa vào khu vực tư nhân. Trọng tâm của sáng kiến đầy tham vọng này là việc tạo ra “những nhà vô địch quốc gia” – các tập đoàn tư nhân lớn, có sức cạnh tranh toàn cầu, có thể đưa nền kinh tế Việt Nam tiến vào các lĩnh vực có giá trị cao hơn và thúc đẩy các chuỗi cung ứng nội địa có khả năng tự phục hồi. Điều này cho thấy sự thay đổi đáng chú ý so với sự phụ thuộc lịch sử của Việt Nam vào các doanh nghiệp nhà nước (DNNN) và đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Nghị quyết đã công khai định vị khu vực kinh tế tư nhân là “một động lực quan trọng nhất” của nền kinh tế, trong khi đó, các DNNN bị hạ xuống vai trò hỗ trợ. Đối với một nhà nước độc đảng lấy chủ nghĩa cộng sản làm ý thức hệ, đây là một đổi mới đáng kể.

Cũng giống như các cải cách khác do TBT Tô Lâm khởi xướng kể từ khi ông lên nắm quyền vào năm 2024, bao gồm các cải cách hành chính sâu rộng, tham vọng tạo ra các nhà vô địch quốc gia mới đã gây ra nhiều tranh luận cả trong và ngoài nước. Một mặt, những người ủng hộ ông tin rằng kế hoạch này sẽ giải phóng tiềm năng của khu vực kinh tế tư nhân, giúp Việt Nam đạt đến trình độ phát triển như đã thấy ở các kỳ tích kinh tế Đông Á. Tuy nhiên, các nhà phê bình lại cảnh báo về nạn thân hữu không được kiểm soát từ các tập đoàn tư nhân hùng mạnh, có mối quan hệ chính trị. Dù là trường hợp nào, đều có thể mô tả TBT Tô Lâm là “nhà cải cách quyết đoán nhất” của Châu Á mà không hề quá lời.

Bài viết này sẽ xem xét kế hoạch của TBT Tô Lâm bằng cách đầu tiên phân tích các chính sách cụ thể và đối chiếu chúng với các nỗ lực trong quá khứ. Thứ hai, bài viết khám phá tính khả thi của việc tạo ra các “chaebol” của Việt Nam dưới những hạn chế về mặt chính trị và kinh tế của đất nước. Thứ ba, bài viết đánh giá các cơ hội và những trở ngại mang tính cấu trúc trong việc thực thi cũng như những hệ lụy rộng lớn hơn đối với quỹ đạo kinh tế của Việt Nam. Cuối cùng, bài viết thảo luận về các cân nhắc chính trong việc thực thi, nhấn mạnh sự cần thiết của các cải cách minh bạch và công bằng để đạt được thành công kinh tế bền vững, dựa vào khu vực tư nhân.

Kế hoạch của TBT Tô Lâm đối với khu vực kinh tế tư nhân

Sau công cuộc Đổi mới năm 1986, khu vực kinh tế tư nhân đã đóng một vai trò quan trọng trong quá trình chuyển đổi của Việt Nam từ một hệ thống kế hoạch hóa tập trung thành một trong những nền kinh tế năng động nhất Châu Á. Tuy nhiên, khu vực tư nhân vẫn giữ vai trò thứ yếu so với các doanh nghiệp nhà nước (DNNN) và FDI trong một hệ thống kinh tế về cơ bản là ba cấp. Các nỗ lực cải cách trước đây, bao gồm Nghị quyết 09 năm 2011 và Nghị quyết 10 năm 2017, chủ yếu tập trung vào việc cải thiện môi trường kinh doanh nói chung nhưng đã không giải quyết được vấn đề cơ bản về quy mô: làm thế nào để chuyển đổi bối cảnh phân mảnh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ (SME) của Việt Nam thành các công ty có sức cạnh tranh toàn cầu, có thể tăng cường quyền tự chủ kinh tế của Việt Nam.

Nghị quyết 68 đánh dấu một sự đoạn tuyệt rõ ràng với việc cải cách theo từng bước. TBT Tô Lâm đã đặt toàn bộ niềm tin của nhà nước vào phía các doanh nghiệp tư nhân: một luật mới về khu vực kinh tế tư nhân, một ủy ban quốc gia do thủ tướng đứng đầu, dễ dàng tiếp cận đất đai và tín dụng hơn, và hạn chế nghiêm ngặt việc thanh tra doanh nghiệp xuống còn một lần một năm. Tham vọng này vượt xa trọng tâm của các cải cách trước đây chỉ nhằm xóa bỏ các rào cản cho các SME. Mục tiêu là định hình lại bối cảnh doanh nghiệp của Việt Nam, tập trung nguồn lực vào việc nuôi dưỡng các công ty lớn với quy mô, năng lực công nghệ và vốn cần thiết để cạnh tranh quốc tế. Động lực thúc đẩy của TBT Tô Lâm không chỉ nhằm tăng cường vai trò của khu vực tư nhân mà còn là một chính sách công nghiệp mới đầy táo bạo để tạo ra “những nhà vô địch quốc gia”. Nghị quyết đặt ra một mục tiêu rõ ràng: phát triển ít nhất 20 doanh nghiệp tư nhân có khả năng tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu vào năm 2030.

Đây là một con đường rất khác so với chương trình xây dựng “nhà vô địch” của Việt Nam vào cuối những năm 2000, khi chính phủ cố gắng tạo ra các tập đoàn DNNN khổng lồ như những “quả đấm thép” của nền kinh tế. Dưới thời Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, nhà nước đã rót nguồn lực để tạo ra các nhà vô địch quốc gia như tổng công ty đóng tàu Vinashin, tập đoàn năng lượng PetroVietnam (PVN) và Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN), với tầm nhìn biến các công ty này thành đối trọng của Việt Nam cho các chaebol của Hàn Quốc hay keiretsu của Nhật Bản. Thử nghiệm đó đã thất bại một cách thảm hại. Việc Vinashin suýt phá sản vào năm 2010, với khoản nợ 4,5 tỷ USD, đã phơi bày những lỗ hổng chết người của việc phân bổ vốn theo định hướng chính trị: hạn chế ngân sách mềm, tham nhũng tràn lan và mở rộng sang các lĩnh vực kinh doanh ngoài ngành dựa trên các mối quan hệ chính trị hơn là lợi thế cạnh tranh.

Tầm nhìn của TBT Tô Lâm đã lật ngược mô hình lấy nhà nước làm trung tâm này. Thay vì chọn người thắng cuộc từ các DNNN hiện có, Nghị quyết 68 bắt buộc phải tạo điều kiện để các tập đoàn tư nhân xuất hiện một cách hữu cơ thông qua cạnh tranh thị trường. Bộ công cụ chính sách bao gồm ưu tiên tiếp cận tín dụng cho các công ty theo đuổi nâng cấp công nghệ, ưu tiên trong mua sắm công cho các công ty đáp ứng các tiêu chí đổi mới và hỗ trợ mở rộng quốc tế thông qua chương trình “Go Global” mới. Quan trọng nhất, nghị quyết mở các dự án cơ sở hạ tầng lớn – vốn do các DNNN như Tổng công ty Đường sắt Việt Nam, Tổng công ty Cảng hàng không Việt Nam (ACV), Tổng công ty Đầu tư phát triển đường cao tốc Việt Nam (VEC) và Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) chi phối theo truyền thống – cho các nhà thầu tư nhân, tạo cơ hội cho các công ty tư nhân đạt được quy mô cần thiết để cạnh tranh toàn cầu. Dự án Đường sắt cao tốc Bắc-Nam trị giá 67 tỷ USD là một ví dụ điển hình cho sự chuyển đổi này, với các tập đoàn tư nhân bao gồm Vingroup và Thaco đã nộp hồ sơ đấu thầu để tham gia vào một lĩnh vực mà chỉ vài năm trước đây là độc quyền của các DNNN.

Tại sao lại có sự chuyển hướng mạnh mẽ này vào lúc này?

Mô hình tăng trưởng phụ thuộc vào xuất khẩu của Việt Nam đang phải đối mặt với những áp lực chưa từng có, khiến cho việc phát triển khu vực kinh tế tư nhân từ một lựa chọn chính sách trở thành một nhu cầu sống còn. Mối đe dọa áp thuế 46% của ông Trump đã phơi bày một cách rõ ràng sự dễ bị tổn thương của nền kinh tế trước các thị trường bên ngoài, trong khi chi phí lao động ngày càng tăng đã dần làm xói mòn lợi thế sản xuất từng thu hút các nhà đầu tư chạy khỏi Trung Quốc. Hệ thống thương mại toàn cầu đã thúc đẩy tăng trưởng của Việt Nam trong ba thập kỷ qua đang cho thấy những dấu hiệu bị rạn nứt thành các khối thù địch, khiến cho việc cân bằng truyền thống của đất nước ngày càng trở nên khó khăn. Trong nước, các dấu hiệu cảnh báo gia tăng: tăng trưởng GDP vẫn chưa phục hồi hoàn toàn sau cú sốc COVID-19, các doanh nghiệp phải vật lộn với những trở ngại về mặt thể chế, và nếu không có sự nâng cấp về công nghệ, Việt Nam có nguy cơ bị mắc kẹt vĩnh viễn trong tình trạng thu nhập trung bình.

TBT Tô Lâm đã khéo léo tận dụng những điểm yếu này, sử dụng diễn ngôn khủng hoảng để cảnh báo rằng Việt Nam sẽ phải đối mặt với sự phụ thuộc kinh tế nếu không tiến hành cải cách khẩn cấp. Tại một hội nghị đầu năm nay, ông đã công khai đặt câu hỏi về mô hình tăng trưởng dựa vào xuất khẩu, hỏi rằng: “Chúng ta đóng góp được bao nhiêu % giá trị trong đó? Hay là mình đang ở phân khúc thấp nhất của chuỗi giá trị, chủ yếu là gia công cho nước ngoài. Một cái áo bán ra mà thiết kế, vải, nhuộm, chỉ, cúc đều của người khác thì mình được bao nhiêu? Có chăng chỉ là công lao động và sự ô nhiễm môi trường? Số liệu tôi nêu trên được trích dẫn từ báo cáo của Lãnh đạo về thành tích của Ngành mình. Tôi cứ tự hỏi đây liệu có phải là “ngộ nhận”, là “tự huyễn hoặc”, là “tự ru mình” không.” Gần đây hơn, ông cảnh báo rằng nếu không cải cách khẩn cấp, Việt Nam có nguy cơ không đạt được các mục tiêu phát triển và cho thấy một thất bại tiềm tàng trong tương lai. Điều này đánh dấu một sự khác biệt rõ rệt so với diễn ngôn thắng lợi về thành công xã hội chủ nghĩa của người tiền nhiệm Nguyễn Phú Trọng. Bằng cách viện dẫn tình trạng khẩn cấp – một cách có chủ ý lặp lại ngôn ngữ sống còn trước Đổi mới năm 1986 – TBT Tô Lâm tạo ra không gian chính trị cho các chính sách khác thường trong khi vô hiệu hóa sự phản đối của phe bảo thủ trong Đảng. Như TS. Vũ Thành Tự Anh đã nhận xét, các cải cách lớn về khu vực tư nhân trong lịch sử chỉ xuất hiện trong các giai đoạn khủng hoảng kinh tế, cho thấy việc TBT Tô Lâm coi đây là tình trạng khẩn cấp vừa là một hồi chuông cảnh tỉnh thực sự vừa là một sự cần thiết về mặt chiến thuật để thúc đẩy những thay đổi cấu trúc đã quá lâu cần thực hiện.

Ai có thể trở thành những nhà vô địch mới?

Trong số một triệu doanh nghiệp đã đăng ký của Việt Nam, chỉ có 20.276 doanh nghiệp đủ tiêu chuẩn là “lớn”, với doanh thu hàng năm vượt quá 100 tỷ đồng (3,8 triệu USD) và sử dụng nhân lực hơn 200 người. Các công ty tư nhân chiếm khoảng một phần ba trong số này, tạo thành một nhóm khoảng 6.000 ứng cử viên tiềm năng. Tuy nhiên, phương pháp lựa chọn của chính phủ để thành lập 20 tập đoàn có sức cạnh tranh toàn cầu có thể sẽ thu hẹp đáng kể lĩnh vực này, tập trung vào một nhóm độc quyền hơn nữa: 100 tập đoàn tư nhân hàng đầu vốn đã chi phối bối cảnh doanh nghiệp của Việt Nam. Tổng cộng, những doanh nghiệp này đã đóng góp 173 nghìn tỷ đồng (6,63 tỷ USD) vào ngân sách nhà nước trong năm 2023, chiếm hơn 30% tổng đóng góp của toàn bộ khu vực tư nhân. Riêng ba doanh nghiệp hàng đầu – Vingroup, Thaco và Hòa Phát – mỗi doanh nghiệp tạo ra nguồn thu cho chính phủ nhiều hơn một nửa trong số 63 tỉnh, thành của Việt Nam trước sáp nhập gần đây.

Do những hạn chế về nguồn lực, phân tích của bài viết này chỉ tập trung vào 50 công ty tư nhân lớn nhất, sử dụng dữ liệu được tổng hợp từ Vietnam Report và nghiên cứu của chính tác giả. Các công ty này được chia thành ba nhóm riêng biệt, mỗi nhóm được xác định bởi nguồn gốc và con đường vươn tới sự nổi bật của nó.

Phân loại 50 doanh nghiệp tư nhân hàng đầu Việt Nam theo ngành nghề và nguồn gốc. Tác giả tổng hợp từ danh sách 100 doanh nghiệp tư nhân hàng đầu Việt Nam do Viet Nam Report công bố.

Nhóm đầu tiên và có ảnh hưởng nhất bao gồm “những người Đông Âu hồi hương” – các tỷ phú trở về từ khối Xô Viết cũ với vốn, các mối quan hệ và đặc biệt là mối quan hệ với các quan chức Việt Nam đã từng học tập ở đó trong Chiến tranh Lạnh. Phạm Nhật Vượng, người giàu nhất Việt Nam và là chủ tịch của Vingroup, là hình mẫu tiêu biểu cho nhóm này. Sau khi làm giàu từ việc bán mì ăn liền ở Ukraina, ông trở về để xây dựng tập đoàn tư nhân lớn nhất Việt Nam, bao trùm các lĩnh vực ô tô, y tế, giáo dục và bất động sản. Nguyễn Thị Phương Thảo, người sáng lập hãng hàng không giá rẻ Vietjet, và Hồ Hùng Anh, cổ đông chính và là chủ tịch của Techcombank, có quỹ đạo tương tự. Đặc điểm nổi bật nhất của mạng lưới này là sự thống trị của nhóm trong lĩnh vực ngân hàng của Việt Nam: 11 trong số 14 ngân hàng thương mại thuộc 50 doanh nghiệp tư nhân hàng đầu thuộc về nhóm này.

Nhóm có ảnh hưởng thứ hai bao gồm các công ty trước đây thuộc sở hữu nhà nước và đã được tư nhân hóa trong đợt cổ phần hóa sâu rộng của Việt Nam. Các ví dụ điển hình bao gồm Vinamilk, REE Corporation, COTECCONS và GELEX. Mặc dù về mặt hình thức là độc lập, sự vươn lên của họ thường được hưởng lợi đáng kể từ các giao dịch nội bộ và ảnh hưởng chính trị lâu dài; họ đã bảo toàn được quyền tiếp cận các nguồn lực nhờ vào nguồn gốc nhà nước của mình.

Nhóm thứ ba bao gồm các ông trùm trong nước đã mở rộng từ các cơ sở quyền lực cấp tỉnh lên tầm quốc gia. Trần Đình Long đã xây dựng Hòa Phát thành nhà sản xuất thép lớn nhất Đông Nam Á từ những khởi đầu khiêm tốn trong lĩnh vực vật liệu xây dựng. Tập đoàn T&T của Đỗ Quang Hiển và Thaco của Trần Bá Dương đi theo con đường tương tự, tận dụng các mối quan hệ với chính quyền địa phương và các vị thế độc quyền khu vực để trở thành các tập đoàn quốc gia.

Ba nhóm này có những đặc điểm đáng chú ý, rất quan trọng để hiểu vai trò của chúng như là những nhà vô địch quốc gia tiềm năng. Thứ nhất, có sự thống trị rõ rệt trong lĩnh vực tài chính và bất động sản. Ngân hàng chiếm 28% trong số 50 công ty hàng đầu, trong khi 44% nắm giữ các danh mục đầu tư bất động sản/khai thác tài nguyên đáng kể. Điều này tạo ra một mối liên kết tài chính-bất động sản mạnh mẽ, khá khác biệt so với sự tăng trưởng do ưu tiên sản xuất được thấy ở Hàn Quốc hoặc Trung Quốc.

Thứ hai, ngành sản xuất vẫn kém phát triển. Chỉ 22% các công ty tư nhân hàng đầu hoạt động trong lĩnh vực sản xuất và phần lớn là trong các lĩnh vực truyền thống như thép, dệt may và chế biến thực phẩm thay vì các ngành công nghệ cao mà Việt Nam cần để hội nhập chuỗi giá trị toàn cầu. Không giống như các chaebol của Hàn Quốc, vốn khởi đầu là các nhà sản xuất trước khi mở rộng sang lĩnh vực tài chính, các tập đoàn của Việt Nam bắt đầu bằng tiền và bất động sản, trước khi chuyển sang sản xuất, ví dụ như Vingroup với công ty con VinFast.

Thứ ba, sở hữu chéo giữa các ngân hàng và các tập đoàn là phổ biến; 93% các ngân hàng trong top 50 có liên kết với các tập đoàn khác. Điều này có thể giúp các công ty này dễ dàng tiếp cận vốn, nhưng nó cũng tạo ra rủi ro hệ thống tương tự như những gì đã xảy ra ở Hàn Quốc trước cuộc Khủng hoảng tài chính Châu Á năm 1997. Bất chấp các quy định giới hạn tỷ lệ sở hữu cá nhân trong một ngân hàng ở mức 5% và tỷ lệ sở hữu của tổ chức ở mức 10%, các ông trùm vẫn có thể lách luật thông qua các thỏa thuận đại diện và cấu trúc công ty phức tạp. Vụ bê bối Vạn Thịnh Phát, nơi nhà phát triển bất động sản Trương Mỹ Lan đã thao túng hệ thống để giành quyền kiểm soát trên thực tế đối với Ngân hàng TMCP Sài Gòn và sau đó bị cáo buộc đã rút ruột 12,5 tỷ USD từ đó, cho thấy những thỏa thuận này có thể dẫn đến những rắc rối tài chính nghiêm trọng cho nền kinh tế như thế nào.

Cơ hội và Thách thức

Thời điểm của sáng kiến này trùng hợp với sự hội tụ thuận lợi của nhiều yếu tố. Nhìn chung, Việt Nam đã sở hữu một nhóm các tập đoàn tư nhân với tham vọng quốc tế đã được chứng minh: FPT đã phát triển thành nhà cung cấp dịch vụ công nghệ thông tin lớn nhất Đông Nam Á, Hòa Phát là nhà sản xuất thép hàng đầu khu vực, trong khi VinFast là nhà sản xuất xe điện nội địa hàng đầu. Các công ty này cho thấy các doanh nhân Việt Nam có thể xây dựng những doanh nghiệp phức tạp có khả năng cạnh tranh tốt vượt ra ngoài biên giới quốc gia.

Môi trường bên ngoài cũng mang lại những cơ hội chưa từng có, bất chấp những rủi ro leo thang từ chính sách thương mại của Hoa Kỳ. Các chuỗi cung ứng toàn cầu đang tái cấu trúc khỏi Trung Quốc, tạo cơ hội cho các công ty Việt Nam nắm bắt các hoạt động có giá trị cao hơn. Lực lượng lao động trẻ, ngày càng có tay nghề của Việt Nam mang lại những lợi thế thực sự, với việc đất nước hiện có hơn 600.000 sinh viên STEM, và xếp hạng 47 trên toàn cầu trong Chỉ số Đổi mới Toàn cầu 2024, xếp trên các quốc gia cùng khu vực như Philippines (56) và Indonesia (60). Các nhà đầu tư nước ngoài, tìm kiếm các lựa chọn thay thế cho Trung Quốc, không chỉ mang lại vốn mà còn cả công nghệ và bí quyết mà các công ty Việt Nam với tham vọng có thể tiếp thu và triển khai. Các can thiệp có mục tiêu của chính phủ như ưu đãi thuế cho R&D, các quy trình đơn giản hóa cho đầu tư và sự hỗ trợ ngoại giao trong việc mở rộng quốc tế sẽ tạo ra những điều kiện màu mỡ để các công ty này phát triển hơn nữa.

Tuy nhiên, tầm nhìn của TBT Tô Lâm mang những rủi ro vốn có, phản ánh những thất bại của cuộc thử nghiệm xây dựng “nhà vô địch” trước đây của Việt Nam vào những năm 2010. Thách thức chính vẫn không thay đổi: làm thế nào để tạo ra các công ty có sức cạnh tranh toàn cầu mà không tạo ra những kẻ lợi dụng kẽ hở và có liên kết chính trị. Sự tăng trưởng của các “chaebol” tiềm năng của Việt Nam thường dựa quá nhiều vào đòn bẩy tài chính: ví dụ, tỷ lệ nợ trên vốn chủ sở hữu của Vingroup ở mức đáng lo ngại là 4,23. Các công ty hàng đầu của Việt Nam thường có tỷ lệ này vào khoảng 2, trong khi các chaebol của Hàn Quốc như Samsung và Lotte đã giữ tỷ lệ này gần một kể từ cuộc khủng hoảng tài chính năm 1997. Ngoài ra, các cấu trúc công ty phức tạp và thiếu minh bạch là phổ biến trong các tập đoàn này, thường đan xen với sự hậu thuẫn chính trị, làm dấy lên lo ngại về quản trị và tính minh bạch. Các vụ bê bối nổi tiếng, như những vụ liên quan đến các công ty xây dựng Thuận An và Phúc Sơn, nhấn mạnh bản chất có vấn đề của sự thông đồng giữa nhà nước và tư nhân, một vấn đề có thể tiếp diễn hoặc thậm chí tăng cường dưới chính sách thúc đẩy mới.

Về cơ bản, cách tiếp cận của TBT Tô Lâm có nguy cơ thay thế hình thức tìm kiếm đặc quyền này bằng một hình thức khác. Nếu được thực thi một cách tồi tệ, Việt Nam có thể chuyển từ các DNNN kém hiệu quả từng bòn rút tài nguyên thông qua vị thế độc quyền sang các tập đoàn tư nhân làm điều tương tự thông qua các mối quan hệ chính trị. Điều này sẽ chèn ép các SME, vốn tạo ra phần lớn việc làm và đổi mới, lặp lại những cuộc đấu tranh hiện tại của Hàn Quốc với sự thống trị của chaebol nhưng không đạt được trình độ tinh vi về công nghệ và năng lực sản xuất của Hàn Quốc trước đó.

Ngoài ra, động lực chính trị xung quanh Nghị quyết 68 gợi ý những thách thức sâu sắc hơn. Mặc dù được chính thức ban hành bởi Ban Chấp hành Trung ương, chính sách mang tính chuyển đổi này lại được Bộ Chính trị thông qua, điều này phá vỡ tiền lệ đối với các cải cách kinh tế lớn. Sự bất thường về mặt thủ tục này cho thấy hoặc là TBT Tô Lâm lo ngại về sự phản đối trong nội bộ Đảng hoặc là mong muốn của ông để đẩy nhanh việc thực thi bằng cách vượt qua sự phản kháng tiềm tàng. Cả hai cách giải thích đều không tốt cho việc xây dựng sự đồng thuận cần thiết cho cải cách bền vững.

Kết quả là, sự phản đối có thể sẽ xuất hiện từ nhiều phía. Các đảng viên bảo thủ có thể coi các tập đoàn tư nhân là mối đe dọa đối với các nguyên tắc xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là vai trò của nhà nước trong việc kiểm soát và phân phối các nguồn lực kinh tế. Các DNNN phải tuân thủ các chỉ thị của Đảng nhưng sự bất mãn của họ sẽ âm ỉ bên dưới bề mặt. Những lo ngại đã xuất hiện, mặc dù âm thầm, về các nhà thầu tư nhân như Vingroup và Thaco cạnh tranh cho Dự án Đường sắt cao tốc Bắc-Nam – một liên doanh mà Tổng công ty Đường sắt Việt Nam đã độc quyền chỉ vài năm trước. Các nhà lãnh đạo cấp tỉnh có thể chống lại việc lựa chọn các nhà vô địch tập trung, điều này làm giảm quyền tự quyết của họ đối với việc phát triển kinh tế địa phương với các “nhà vô địch” yêu thích của riêng họ. Ngay cả trong khu vực tư nhân, các SME và các công ty có quy mô vừa cũng có thể chống lại các chính sách tập trung lợi thế vào các tập đoàn đã có tên tuổi.

Thành công phụ thuộc vào các điều kiện tiên quyết về mặt thể chế mà Việt Nam chưa thiết lập. Việc xây dựng “nhà vô địch” mà không có các cơ chế quản trị minh bạch, kiểm toán bên ngoài và các điều khoản chấm dứt có thời hạn có thể thi hành được đối với sự hỗ trợ của nhà nước chỉ đơn thuần tạo ra một tầng lớp mới những kẻ tìm kiếm đặc quyền.

Do đó, trong khi các tập đoàn tư nhân của Việt Nam sở hữu tiềm năng đáng kể để trở thành điểm tựa cho tham vọng kinh tế toàn cầu của quốc gia, thì việc hiện thực hóa tiềm năng này đòi hỏi phải quản lý cẩn trọng các rủi ro vốn có. Nếu không có sự kiểm tra và cân bằng chặt chẽ, tính minh bạch được nâng cao và cam kết thực sự đối với các thị trường cạnh tranh, tầm nhìn của TBT Tô Lâm có thể vô tình nuôi dưỡng những gã khổng lồ có quan hệ chính trị thay vì những nhà đổi mới kinh tế thực sự. Việc điều hướng thành công những căng thẳng này sẽ quyết định liệu chính sách đầy tham vọng này có xúc tác cho sự tăng trưởng kinh tế bền vững hay chỉ đơn giản là lặp lại những sai lầm của các chiến lược lấy nhà nước làm trung tâm trong quá khứ.

Kết luận

Tham vọng của Việt Nam trong việc nuôi dưỡng các “nhà vô địch quốc gia” là một canh bạc táo bạo mang lại cả hứa hẹn và hiểm họa. Lịch sử cho thấy việc lựa chọn những người chiến thắng trong doanh nghiệp đầy rẫy rủi ro. Các chaebol của Hàn Quốc ban đầu thành công thông qua các số liệu hiệu suất nghiêm ngặt gắn liền với các mục tiêu xuất khẩu, nhưng sau đó đã biến thành những công ty “quy mô tới mức không thể để phá sản” (“too-big-to-fail”), cần những gói cứu trợ khổng lồ trong cuộc Khủng hoảng tài chính Châu Á năm 1997. Một hướng đi tham khảo khác của Đài Loan – nuôi dưỡng các mạng lưới SME chuyên biệt dày đặc – đã chứng tỏ khả năng phục hồi tốt hơn nhưng ít có khả năng đạt được sự hiệu quả về quy mô cần thiết cho một số ngành công nghiệp thâm dụng vốn mà các nhà lãnh đạo hy vọng. Thách thức của Việt Nam là tạo ra một cách tiếp cận kết hợp: nuôi dưỡng các “nhà vô địch” được chọn lọc trong các lĩnh vực chiến lược trong khi vẫn duy trì một hệ sinh thái cạnh tranh cho các công ty nhỏ hơn.

Hiện tại, các nhiệm vụ phía trước là rất khó khăn. Các “nhà vô địch quốc gia” tiềm năng của Việt Nam nghiêng nhiều về các lĩnh vực tìm kiếm đặc quyền như bất động sản và khai thác tài nguyên, hơn là sản xuất – động lực thực sự đằng sau thành công kinh tế của Hàn Quốc. Khoảng cách đổi mới cũng rất rõ rệt, với công nghệ cao và công nghệ thông tin chỉ chiếm 2% trong số các công ty lớn nhất. Chuyển từ một mối liên kết tài chính-bất động sản sang sự thâm dụng vào sản xuất đòi hỏi phải tái cấu trúc cơ bản; nếu không, các “nhà vô địch” có nguy cơ vẫn bị mắc kẹt trong các hoạt động có giá trị thấp.

Thành công phụ thuộc vào các điều kiện tiên quyết về mặt thể chế mà Việt Nam chưa thiết lập. Việc xây dựng “nhà vô địch” mà không có các cơ chế quản trị minh bạch, kiểm toán bên ngoài và các điều khoản chấm dứt có thời hạn có thể thi hành được đối với sự hỗ trợ của nhà nước chỉ đơn thuần tạo ra một tầng lớp mới những kẻ tìm kiếm đặc quyền. Cuộc đại tu bộ máy quan liêu gần đây của Việt Nam nhấn mạnh sự sẵn sàng cải cách của nước này, nhưng sự chuyển đổi kinh tế thực sự đòi hỏi nhiều hơn là sự sắp xếp lại cấu trúc. Trong lịch sử, mối quan hệ của Việt Nam với doanh nghiệp tư nhân đã dao động giữa sự nghi ngờ và sự thu hút, bị ảnh hưởng nặng nề bởi sự căng thẳng giữa sự thuần túy về mặt ý thức hệ và tính hợp pháp về mặt kinh tế. Nghị quyết 68 tìm cách thu hẹp khoảng cách này, về mặt tu từ học đã định hình doanh nghiệp tư nhân là tương thích với chủ nghĩa xã hội – một cách tiếp cận phải tồn tại lâu hơn nhiệm kỳ của TBT Tô Lâm để duy trì sự phát triển của khu vực tư nhân lâu dài.

Kinh nghiệm của Hàn Quốc mang lại cho Việt Nam những bài học quan trọng. Các “nhà vô địch” của Việt Nam nên lồng ghép tính minh bạch, kiểm toán bên ngoài thường xuyên và giám sát hiệu suất nghiêm ngặt ngay từ đầu. Tương tự, khả năng cạnh tranh toàn cầu – chứ không phải chỉ là quy mô – nên là thước đo chính của sự thành công. Hơn nữa, việc xây dựng “nhà vô địch” không được làm lu mờ khu vực SME năng động, xương sống kinh tế của Việt Nam, vốn rất quan trọng cho sự đổi mới và việc làm. Các chính sách nên củng cố các SME thông qua tài chính dễ tiếp cận, miễn giảm thuế, các khu công nghệ chuyên dụng, cơ sở hạ tầng đào tạo vững chắc và các ưu đãi khác. Các “nhà vô địch quốc gia” nên tích hợp các SME vào chuỗi giá trị của họ thay vì nuốt trọn họ.

Việc điều hướng các thách thức này một cách hiệu quả sẽ giúp Việt Nam không chỉ tái tạo những thành công của các nước láng giềng Đông Á mà còn tạo ra một mô hình kinh tế độc đáo, có khả năng phục hồi, phù hợp với con đường phát triển của riêng mình trong bối cảnh những bất ổn toàn cầu. Mọi thứ không thể cao hơn được nữa: liệu sáng kiến của TBT Tô Lâm có tạo ra những công ty đa quốc gia năng động hay những kẻ thân hữu cố thủ sẽ quyết định liệu Việt Nam có thể nhảy vọt lên trạng thái thu nhập cao hay, giống như nhiều nền kinh tế đang phát triển khác, bị mắc kẹt vĩnh viễn trong bẫy thu nhập trung bình.

TS. Nguyễn Khắc Giang là nghiên cứu viên khách mời của Chương trình Nghiên cứu Việt Nam tại Viện Yusof Ishak về Nghiên cứu Đông Nam Á (ISEAS – Yusof Ishak Institute), và là thành viên Dự án Đại Sự Ký Biển Đông. Lê Bá Nhật Thắng là cộng tác viên Dự án Đại Sự Ký Biển Đông. Có thể đọc bài viết gốc ở đây. Bài viết là phiên bản rút gọn của báo cáo đầy đủ ở đây.

Nguyên tắc hoạt động của Dự án Đại Sự Ký Biển Đông.

—————

Dự án Đại Sự Ký Biển Đông tồn tại dựa trên tài trợ của cộng đồng. Nếu quý độc giả muốn có một nguồn thông tin tri thức khách quan, đa chiều dựa trên chiều sâu chuyên môn và dữ liệu có hệ thống, Dự án Đại Sự Ký Biển Đông là một địa chỉ mà mọi người có thể tin tưởng. Hãy chung tay cùng với chúng tôi duy trì Dự án bằng cách tài trợ cho Dự án, và khuyến khích bạn bè, đồng nghiệp cùng tài trợ Dự án. Xem hướng dẫn tài trợ ở đây: https://dskbd.org/tai-tro-cho-du-an/. Báo cáo tài chính sẽ được tổng kết vào cuối năm. Chúng tôi xin trân trọng cảm ơn.

Leave a comment

This site uses Akismet to reduce spam. Learn how your comment data is processed.