Vấn Đề Nan Giải Lớn Của Campuchia: Ứng Phó Với Tâm Lý Bài Việt

Tác giả: Po Sovinda | ISEAS Perspective 2025/47, 27 tháng 6 năm 2025

Biên dịch: Hạo Nhiên | Dự án Đại Sự Ký Biển Đông

Sơ lược

– Mối quan hệ giữa Campuchia và Việt Nam là sự pha trộn của hợp tác và xung đột, ảnh hưởng sâu sắc bởi tâm lý bài Việt tại Campuchia.

– Những tâm lý này bắt nguồn từ cảm thức đối với các bất công lịch sử, đặc biệt là mất mát lãnh thổ và các chính sách thuộc địa của Pháp khuyến khích người Việt di cư và kiểm soát bộ máy hành chính, làm gia tăng nỗi lo sợ về việc bị người Việt thôn tính. Những căng thẳng thời hiện đại từ giai đoạn Khmer Đỏ đến cuộc can thiệp quân sự của Việt Nam, càng làm sâu sắc thêm sự mất lòng tin vốn có.

– Những tâm lý này ảnh hưởng đến bối cảnh chính trị, gắn kết xã hội, và uy tín quốc tế của Campuchia. Chính phủ do Đảng Nhân dân Campuchia cầm quyền đang đối mặt với những thách thức về tính chính danh, khi một bộ phận người dân cho rằng chính quyền quá nhân nhượng đối với các lợi ích của Việt Nam.

– Để đối phó, chính phủ Campuchia đã thực hiện một số biện pháp như thu hồi giấy tờ cư trú của những người Việt Nam nhập cư trái phép và rút khỏi các sáng kiến hợp tác nhạy cảm như kiểu Khu vực Tam giác Phát triển Campuchia–Lào–Việt Nam. Đồng thời, chính phủ cũng đã hạn chế các luận điệu bài Việt, đặc biệt là từ đảng đối lập – Đảng Cứu quốc Campuchia.

– Mặc dù đã có những nỗ lực như vậy, các tranh chấp biên giới và biển chưa được giải quyết vẫn là những điểm nóng tiềm tàng có thể đẩy cao tâm lý bài Việt.

Giới thiệu

Mối quan hệ lịch sử giữa Campuchia và Việt Nam đã trải qua những giai đoạn hợp tác và xung đột. Tâm lý bài Việt lan rộng ở Campuchia bắt nguồn từ thế kỷ 17, có nguồn gốc từ những cảm thức về bất công và các tranh chấp lãnh thổ, sau này càng gay gắt hơn dưới thời thuộc Pháp. Tâm lý này đã khiến bản sắc dân tộc Campuchia thường được định hình dựa trên sự đối lập với ảnh hưởng của Việt Nam. Về phía chính phủ Campuchia, việc kiểm soát những tâm lý này là yếu tố sống còn nhằm đảm bảo ổn định xã hội, duy trì chủ quyền quốc gia và nâng cao uy tín của Campuchia trên trường quốc tế.

Bài viết này tìm hiểu các nguyên nhân gốc rễ của tâm lý bài Việt tại Campuchia, tập trung vào những căng thẳng lịch sử, các di sản thuộc địa, và các yếu tố chính trị đương đại. Bài viết cũng phân tích phản ứng của chính phủ Campuchia hiện nay, bao gồm các hành động trực tiếp như cải cách chính sách nhập cư và hoạt động ngoại giao, cũng như các nỗ lực gián tiếp kiểu hạn chế luận điệu bài Việt. Nghiên cứu này làm rõ những thách thức dai dẳng mà Campuchia gặp phải trong việc thúc đẩy đoàn kết dân tộc và chung sống hoà bình với Việt Nam.

Nguyên nhân lịch sử của tâm lý bài Việt

Tâm lý bài Việt ở Campuchia có thể được truy nguyên ít nhất từ năm 1620, khi Vua Chey Chettha II kết hôn với công chúa Việt Nam Nguyễn Phúc Ngọc Vạn. Một truyền thuyết từ thời vương quốc Chân Lạp cho rằng vị vua Khmer này đã nhượng lại Kampuchea Krom (khu vực tây nam của Việt Nam ngày nay) cho Việt Nam để đổi lấy cuộc hôn nhân và sự ủng hộ của người Việt chống lại nhà Ayutthaya ở phía Tây.[1] Cuộc hôn nhân đã đánh dấu liên minh chính trị đầu tiên giữa hai quốc gia và mở đầu cho ảnh hưởng của Việt Nam tại Campuchia, đồng thời mở đường cho người Việt định cư ở Đồng bằng sông Cửu Long. Thế kỷ 18 và 19 đã chứng kiến quá trình định cư ồ ạt của người Việt tại khu vực này. Đến khi Pháp thiết lập quyền cai trị thuộc địa ở miền Nam Việt Nam vào thế kỷ 19, người Việt thực tế đã thống trị vùng này, thông qua những cơ cấu hành chính cho phép họ tuyên bố quyền sở hữu đối với đất đai.[2]

Chính sách thuộc địa của Pháp càng khiến tâm lý bài Việt trở nên gay gắt hơn khi sáp nhập Campuchia, Việt Nam và Lào thành Liên bang Đông Dương, chính thức thành lập năm 1887. Pháp đã phớt lờ các ranh giới lịch sử và nguyện vọng của người dân địa phương, thực hiện những điều chỉnh lãnh thổ gây ra tranh chấp giữa ba quốc gia. Một ví dụ điển hình là việc chính phủ Pháp công nhận chính thức Kampuchea Krom là một phần của Việt Nam theo Pháp lệnh số 49-733 do Tổng thống Vincent Auriol ký ngày 4 tháng 6 năm 1949.[3]

Sau khi Việt Nam và Campuchia giành được độc lập từ Pháp, tâm lý bài Việt tại Campuchia tiếp tục gia tăng do làn sóng người Việt nhập cư tìm kiếm các cơ hội kinh tế. Nhiều người Campuchia xem điều này là mối đe dọa đối với chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ. Cuộc điều tra dân số Campuchia năm 1962 ghi nhận có 218.000 người Việt Nam sinh sống tại nước này (chiếm 3,8% trong tổng dân số 5,7 triệu người).[4] Trước cuộc đảo chính của Lon Nol năm 1970, dân số người Việt tại Campuchia ước tính vào khoảng 400.000 – 450.000 người trong tổng số 6,7 triệu dân, khiến họ trở thành cộng đồng thiểu số lớn nhất tại Campuchia.[5] Đối phó với tình hình này, chính quyền Lon Nol (1970 – 1975) đã phát động các chiến dịch bài Việt, trục xuất khoảng 200.000 – 250.000 người Việt về Việt Nam và sát hại hàng nghìn người khác.[6] Sau khi Pol Pot lên nắm quyền vào tháng 4 năm 1975, thêm khoảng 150.000 người Việt tiếp tục bị trục xuất.[7] Năm 1977, Khmer Đỏ ra lệnh thảm sát khiến hàng nghìn người thiệt mạng;[8] các báo cáo cho thấy đến cuối năm đó, chỉ còn vài nghìn người Việt sống sót được.[9] Năm 1979, quân đội Việt Nam lật đổ chế độ Khmer Đỏ và thành lập nước Cộng hòa Nhân dân Campuchia thân Việt Nam. Tuy nhiên, nhiều người Campuchia vẫn xem giai đoạn chiếm đóng kéo dài một thập kỷ của Việt Nam (1979 – 1989) là sự kiểm soát hơn là giải phóng.[10]

Những cay đắng lịch sử này tiếp tục định hình nhận thức của nhiều người Campuchia. Chẳng hạn, vào tháng 8 năm 2022, một nhóm nhỏ thanh niên đã biểu tình phản đối việc thành lập Khoa Việt Nam Học tại Đại học Hoàng gia Phnom Penh.[11] Những người biểu tình cho rằng đơn vị này có thể lan truyền ảnh hưởng chính trị và văn hóa Việt Nam theo cách không có lợi cho Campuchia. Tương tự, vào tháng 8 năm 2024, hàng nghìn người Campuchia sinh sống tại Hàn Quốc, Nhật Bản, và Úc đã biểu tình phản đối việc Campuchia tham gia Khu vực Tam giác Phát triển Campuchia–Lào–Việt Nam (CLV-DTA), bày tỏ lo ngại về khả năng Việt Nam xâm lấn lãnh thổ nếu thỏa thuận này tiếp tục được duy trì.

Kiểm soát tâm lý bài Việt

Trong bối cảnh đó, chính phủ Campuchia phải chủ động kiểm soát tâm lý bài Việt. Thứ nhất, tính chính danh là mối quan tâm lớn đối với Đảng Nhân dân Campuchia (CPP) cầm quyền. Những cáo buộc cho rằng chính phủ CPP ưu ái lợi ích của Việt Nam hơn lợi ích của chính người dân Campuchia, dù không có bằng chứng đáng tin cậy, vẫn có thể làm tổn hại đến uy tín của CPC trong mắt một bộ phận dân chúng. Thứ hai, kiểm soát những tâm lý này một cách hiệu quả có thể giúp ổn định xã hội và chính trị. Căng thẳng dâng cao có thể dẫn đến chia rẽ cộng đồng, và di dời sự chú ý khỏi các vấn đề thiết yếu như xóa đói giảm nghèo, giáo dục, và phát triển hạ tầng. Thứ ba, việc hạn chế tâm lý bài Việt có thể cải thiện hình ảnh của Campuchia trên trường quốc tế và tạo tiềm năng tăng đầu tư nước ngoài, du lịch, và hợp tác. Các quốc gia thường ưu tiên hợp tác với những nước thể hiện sự hòa hợp xã hội và cam kết đảm bảo nhân quyền. Thứ tư, kiểm soát tốt tâm lý bài Việt trong nước giúp chính phủ duy trì quan hệ hữu nghị với Việt Nam, một mối quan hệ có tính then chốt đối với an ninh và phát triển của Campuchia. Cần lưu ý rằng chính phủ Việt Nam đã nhiều lần kêu gọi Campuchia bảo vệ các cộng đồng gốc Việt sinh sống trong lãnh thổ nước này,[12] những người mà họ cho rằng thường xuyên phải đối mặt với sự phân biệt đối xử và quấy rối.

Chính phủ Campuchia đối phó với tâm lý bài Việt thông qua cả các biện pháp trực tiếp và gián tiếp. Các biện pháp trực tiếp bao gồm kiểm soát tình hình nhập cư bất hợp pháp của người Việt và rút khỏi sáng kiến CLV-DTA. Gián tiếp, chính phủ tìm cách kiềm chế những bên kích động tâm lý bài Việt, chẳng hạn như Đảng Cứu quốc Campuchia (CNRP).

Giải quyết vấn đề người Việt Nam nhập cư bất hợp pháp

Để đối phó với tâm lý bài Việt dâng cao tại Campuchia, chính phủ đã thực hiện các bước nhằm kiểm soát vấn đề người Việt nhập cư bất hợp pháp. Theo dữ liệu có được vào năm 2017, ước tính có khoảng 400.000 đến 700.000 người Việt ở Campuchia, cả hợp pháp và bất hợp pháp. [13] Để giải quyết tình trạng này, chính phủ đã triển khai một loạt biện pháp đáng kể, bao gồm việc lập hồ sơ và trục xuất người nhập cư Việt Nam. Một trong những nỗ lực nổi bật nhất bắt đầu vào năm 2017 với một chiến dịch thu hồi “các giấy tờ hành chính không hợp lệ” của khoảng 70.000 người, đa số là gốc Việt. [14] Ở đây, “thu hồi” được hiểu là việc chính thức vô hiệu hóa các loại giấy tờ được cho là đã cấp sai quy định, chẳng hạn như giấy khai sinh, thẻ nhập cư cũ, hộ chiếu, chứng minh nhân dân, và các loại giấy tờ pháp lý khác. Điều đáng chú ý là nhiều gia đình người Việt đã sinh sống tại các khu vực như hồ Tonle Sap qua nhiều thế hệ. Tuy nhiên, bất chấp thời gian cư trú lâu dài, nhiều người vẫn không được công nhận một cách chính thức.

Thêm vào đó, kể từ năm 2015, chính phủ đã trục xuất 4.424 người nước ngoài không có giấy tờ, trong đó có 3.978 người – khoảng 90% – là người Việt Nam.[15] Riêng trong năm 2024, chính phủ Campuchia đã trục xuất 2.159 người nước ngoài vi phạm pháp luật, bao gồm 507 người Việt Nam.[16]

Chính phủ biện minh cho các hành động này bằng cách viện dẫn những sai phạm hành chính và việc cấp phát giấy tờ pháp lý không đúng quy định, cho rằng nhiều người gốc Việt đã có được các giấy tờ chính thức thông qua các kênh không hợp lệ hoặc không theo đúng quy trình pháp lý cần thiết. Những biện pháp này phần lớn được xem như một cách đối phó với áp lực gia tăng từ trào lưu dân tộc chủ nghĩa và sự oán giận kéo dài có tính lịch sử đối với cộng đồng người Việt. Thông qua thu hồi các giấy tờ này, chính phủ Campuchia nhắm đến việc chấn chỉnh hệ thống nhập cảnh và chuẩn hóa tư cách cư trú hợp pháp. Nhiều người Campuchia coi chiến dịch trấn áp này là cần thiết để xoa dịu các nhóm dân tộc chủ nghĩa và củng cố chủ quyền quốc gia.

Rút khỏi CLV-DTA

Vào ngày 20 tháng 9 năm 2024, Campuchia tuyên bố rút khỏi CLV-DTA, một thỏa thuận ba bên đã tồn tại 25 năm giữa Campuchia, Lào, và Việt Nam. Thỏa thuận này ban đầu được ký kết dưới thời cựu Thủ tướng Hun Sen. Việc rút khỏi thỏa thuận được nhìn nhận một cách rộng rãi là động thái đối phó với tâm lý bài Việt lên cao và chủ nghĩa dân tộc sôi sục ở nước này. Bên chỉ trích thỏa thuận cho rằng CLV-DTA gây ra nạn phá rừng và tranh chấp biên giới, đe dọa đến toàn vẹn lãnh thổ của Campuchia.[17] Họ đặc biệt cáo buộc chính phủ CPP đã nhượng các tỉnh Đông Bắc là Ratanakiri, Stung Treng, Kratie, và Mondulkiri cho Việt Nam. Những cáo buộc này càng làm trầm trọng thêm sự bất mãn của công chúng, và đe dọa gây mất ổn định đối với đảng cầm quyền.[18]

Ban đầu, chính phủ Campuchia kiên quyết bảo vệ CLV-DTA, nhấn mạnh tầm quan trọng của thỏa thuận này trong thúc đẩy hợp tác khu vực và phát triển kinh tế của các tỉnh Đông Bắc. [19] Chính phủ cũng trấn an công chúng rằng sẽ không có bất kỳ sự trao đổi lãnh thổ nào diễn ra trong khuôn khổ thỏa thuận này. Campuchia và Việt Nam cũng ký một thỏa thuận vào năm 2005, cùng với Hiệp ước Biên giới năm 1985, tạo nên khung pháp lý cho việc phân định biên giới chung giữa hai nước. Trên cơ sở đó, Campuchia bắt đầu tiến hành phân giới cắm mốc với Việt Nam từ năm 2007, thể hiện cam kết của chính phủ trong việc bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ quốc gia. Theo Thủ tướng Hun Manet, trong 25 năm qua, hơn 150 cột mốc biên giới đã được cắm ở riêng tỉnh Kratie [20]; trong đó có 11 mốc chính và 144 mốc phụ.

Bất chấp những hành động trấn an này từ phía chính phủ, các lo ngại về chủ quyền cùng với việc lan truyền nhanh chóng các thông tin sai lệch từ phía các nhóm dân tộc chủ nghĩa đã buộc chính phủ phải xem xét lại vị thế của mình. Tranh cãi xung quanh CLV-DTA nhanh chóng lan rộng trong các cộng đồng người Campuchia ở Hàn Quốc, Úc, và Nhật Bản, họ đã tổ chức các cuộc phản đối để yêu cầu Campuchia rút khỏi thỏa thuận. Sự bất mãn lên đến đỉnh điểm với các cuộc biểu tình trong nước vào ngày 18 tháng 8 năm 2024, dẫn đến việc hơn 66 người bị bắt giữ. Dù phần lớn những người bị bắt sau đó đã được thả, các thủ lĩnh biểu tình vẫn phải đối mặt với các án phạt.[22]

Trước áp lực trong nước ngày càng lớn và đối phó với tâm lý bài Việt đang gia tăng, Thủ tướng Hun Sen và người kế nhiệm, Hun Manet, cùng các lãnh tụ chính trị khác cuối cùng đã quyết định rút Campuchia khỏi CLV-DTA. Động thái này thể hiện sự chú trọng của CPP đối với các quan ngại mang tính dân tộc chủ nghĩa và cam kết của chính phủ trong việc bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ, ngay cả khi phải đánh đổi sự tham gia hợp tác kinh tế khu vực. Việc rút lui cũng có thể là để chuyển giao quyền lực một cách êm thấm từ Hun Sen sang con trai ông. Với tư cách là Thủ tướng, Hun Manet – người không có mối quan hệ thân thiết với giới lãnh đạo Việt Nam như cha mình – có nhiều dư địa hơn để giải quyết các vấn đề cảm xúc dân tộc. Bằng cách để người tiền nhiệm gánh chịu phần lớn sự soi mói của công chúng, Hun Manet đã khéo léo chuyển hướng chú ý khỏi bản thân, tạo cho mình không gian cần thiết để củng cố vai trò lãnh đạo, khôi phục niềm tin của người dân, và nâng cao uy tín của đảng cầm quyền.

Kiềm chế những người kích động

Chính phủ Campuchia cũng cần đảm bảo rằng trong nước không có nguồn đáng tin cậy nào tham gia đào sâu thêm tâm lý bài Việt. Trong ba thập kỷ qua, nguồn kích động chính của những cảm xúc này chủ yếu là Đảng Cứu quốc Campuchia (CNRP), một đảng đối lập.[23] Các lãnh đạo nổi bật của CNRP thường xuyên sử dụng từ “Yuon” trong tiếng Khmer để chỉ người Việt Nam, một từ thường bị coi là miệt thị và phân biệt đối xử. Ví dụ, vào tháng 7 năm 2013, Sam Rainsy, chủ tịch CNRP khi đó, đã tuyên bố: “Toàn thể đồng bào – đây là cơ hội cuối cùng, nếu chúng ta không cứu lấy tổ quốc mình, bốn hay năm năm nữa sẽ là quá muộn, Campuchia sẽ tràn ngập người Việt, chúng ta sẽ trở thành nô lệ của Việt Nam.”[24] Những luận điệu như vậy đã được sử dụng như một chiến lược chính trị nhằm làm mất uy tín của CPP, và đã lặp lại trong suốt ba mươi năm qua.

Để ngăn chặn tâm lý bài Việt trượt khỏi tầm kiểm soát, Tòa án Tối cao Campuchia đã giải thể CNRP vào ngày 16 tháng 11 năm 2017. Đảng này bị cáo buộc âm mưu một “cuộc cách mạng màu” nhằm lật đổ chính phủ, một cáo buộc mà các lãnh đạo đảng kiên quyết phủ nhận. Kem Sokha, người kế nhiệm Sam Rainsy làm chủ tịch CNRP vào tháng 3 năm 2017, đã bị bắt giữ, và tất cả các chính trị gia CNRP đắc cử đều mất ghế tại Quốc hội.[25] Tuy nhiên, Sam Rainsy đã kịp thời trốn sang Pháp trước khi đảng bị giải thể.

Vì việc là thành viên của CNRP hiện bị coi là phản quốc theo luật Campuchia, nên cuộc vận động tâm lý bài Việt bởi các nhân vật chính trị lớn đã trở nên không còn hiệu quả.

Những thách thức còn tồn tại

Mặc dù chính phủ Campuchia đã có những nỗ lực mạnh mẽ nhằm kiểm soát tâm lý bài Việt nhưng thách thức vẫn còn. Trong đó, các vấn đề phân định biên giới chưa được giải quyết vẫn là nguồn căng thẳng lớn. Biên giới trên đất liền giữa Campuchia và Việt Nam, kéo dài 1.137 km qua mười tỉnh của Việt Nam và chín tỉnh của Campuchia, tiếp tục là một chủ đề nhạy cảm.[26] Mặc dù Hiệp ước Phân định Biên giới Quốc gia năm 1985 và Hiệp ước Bổ sung năm 2005 đã cho kết quả phân định chính thức khoảng 84% đường biên giới (1.042 km),[27] vẫn còn một số khu vực tranh chấp chưa được giải quyết và bất cứ lúc nào cũng có thể làm bùng phát cảm xúc bài Việt, nhất là với bối cảnh lịch sử phức tạp giữa hai quốc gia.

Hơn nữa, biên giới trên biển giữa Campuchia và Việt Nam vẫn chưa được đàm phán chính thức và hiện vẫn chưa được giải quyết. Sự mơ hồ này tạo điều kiện cho các hoạt động như đánh bắt cá bất hợp pháp, không báo cáo và không theo quy định (IUU), vốn thường xuyên làm trầm trọng thêm căng thẳng đã có. Các vụ tàu cá Việt Nam tiếp tục xâm nhập vào vùng biển mà Campuchia cho là thuộc chủ quyền của mình vẫn thường châm ngòi cơn giận dữ của công chúng. Một sự việc đáng chú ý xảy ra vào tháng 4 năm 2020, khi 240 tàu cá Việt Nam bị cáo buộc đã đi vào vùng biển Campuchia.[28] Chính quyền Việt Nam đã cam kết xử lý các hành vi vi phạm như vậy, nhưng vấn đề tối quan trọng là phải có các giải pháp hiệu quả và kịp thời. Nếu không hành động một cách dứt khoát, tâm lý bài Việt trong xã hội Campuchia có thể sẽ còn bùng phát hơn nữa và làm suy yếu các nỗ lực lớn hơn nhằm duy trì quan hệ ổn định và hữu nghị giữa hai nước.

Một thách thức khác là cách chính phủ và công chúng Việt Nam phản ứng trước dự án Kênh đào Phù Nam Techo của chính phủ Campuchia. Nếu Việt Nam tiếp tục làm mất uy tín của dự án này, những chỉ trích đó chắc chắn sẽ làm gia tăng thêm cảm xúc bài Việt trong xã hội Campuchia.[29] Dựa trên nhiều cuộc trao đổi giữa tác giả với các học giả và quan chức Campuchia, phần lớn người đối thoại tin rằng Việt Nam đang tích cực tìm cách làm mất tính chính danh của dự án. Thực tế, mỗi khi truyền thông Việt Nam đăng tải các bài viết chỉ trích dự án,[30] các lãnh đạo và học giả Campuchia đều nhanh chóng lên tiếng bảo vệ và bác bỏ những lo ngại từ phía Việt Nam là “không phù hợp”.[31] Do đó, nếu Hà Nội lựa chọn kiềm chế không bài xích dự án này, tâm lý bài Việt tại Campuchia cũng sẽ nằm trong tầm kiếm soát. Ngược lại, sự chỉ trích liên tục từ phía Việt Nam có thể sẽ châm ngòi thêm nữa các cảm xúc đó.

Nhìn xa hơn, giải quyết một cách hiệu quả tâm lý bài Việt tại Campuchia đòi hỏi một cách tiếp cận tinh tế và đa chiều, vượt trên các hành động chính trị ngắn hạn. Điều này lại cần thúc đẩy một câu chuyện về sự hòa nhập thực sự và những khát vọng tương lai chung, một câu chuyện đem đến sự tôn trọng lẫn nhau, cảm thông và thấu hiểu. Bằng cách nâng cao nhận thức, chống lại các luận điệu có tính kích động, và tạo ra các nền tảng cho giao lưu văn hóa, chính phủ Campuchia có thể củng cố mối quan hệ hòa bình và cùng có lợi với Việt Nam, đặt nền móng cho một khu vực hài hòa, kiên cường và thịnh vượng hơn.

Po Sovinda là Nghiên cứu viên thỉnh giảng trong Chương trình Nghiên cứu Việt Nam tại Viện ISEAS – Yusof Ishak. Hạo Nhiên là một độc giả cộng tác với Dự án Đại Sự Ký Biển Đông. Bài viết gốc được đăng ở đây.

Nguyên tắc hoạt động của Dự án Đại Sự Ký Biển Đông.

—————

Dự án Đại Sự Ký Biển Đông tồn tại dựa trên tài trợ của cộng đồng. Nếu quý độc giả muốn có một nguồn thông tin tri thức khách quan, đa chiều dựa trên chiều sâu chuyên môn và dữ liệu có hệ thống, Dự án Đại Sự Ký Biển Đông là một địa chỉ mà mọi người có thể tin tưởng. Hãy chung tay cùng với chúng tôi duy trì Dự án bằng cách tài trợ cho Dự án, và khuyến khích bạn bè, đồng nghiệp cùng tài trợ Dự án. Xem hướng dẫn tài trợ ở đây: https://dskbd.org/tai-tro-cho-du-an/. Báo cáo tài chính sẽ được tổng kết vào cuối năm. Chúng tôi xin trân trọng cảm ơn.

Leave a comment

This site uses Akismet to reduce spam. Learn how your comment data is processed.