Tác giả: April A. Herlevi | NBR ngày 14 tháng 3 năm 2024
Biên dịch: Dương Ngô | Dự án Đại Sự Ký Biển Đông
Kiến trúc kỹ thuật số của CHND Trung Hoa là một không gian chiến lược đang mở rộng. Vừa là không gian tưởng tượng, vừa là không gian vật lý, Con đường Tơ lụa Kỹ thuật số sẽ tạo ra những cơ hội và nguy cơ đối với an ninh quốc gia, dữ liệu và bảo mật trên toàn cầu. Cùng với Con đường Tơ lụa Kỹ thuật số, Trung Quốc cũng đang mở rộng hiện diện trên các miền (domain) biển và dưới mặt biển thông qua khảo sát hải dương học và thăm dò khai khoáng biển sâu. Không giống như các khái niệm lãnh thổ về không gian chiến lược, miền kỹ thuật số và dưới mặt biển không được phân định rõ ràng.
Tiểu luận này xem xét khái niệm của Trung Quốc về không gian chiến lược của họ trong các miền này và mối liên hệ giữa kỹ thuật số dưới đáy biển với các mục tiêu chiến lược dài hạn của nhà nước đơn đảng CHND Trung Quốc. Tiểu luận tập trung vào hai câu hỏi chính. Đầu tiên, chiến lược của Trung Quốc đối với kiến trúc kỹ thuật số toàn cầu của họ là gì? Thứ hai, những mục tiêu kỹ thuật số đó liên hệ với miền dưới mặt biển như thế nào? Sau khi tóm tắt các mục tiêu của Trung Quốc đối với biển và kỹ thuật số, tôi sẽ tập trung vào ba lĩnh vực có sự tương đồng với nhau: cáp quang ngầm, lập bản đồ đáy biển và khai khoáng biển sâu. Phần kết luận của bài rút ra một số tác động của không gian chiến lược đang mở rộng của Trung Quốc trong miền kỹ thuật số dưới mặt biển.
Các Mục tiêu Biển và Kỹ thuật số: Giao thoa dưới mặt biển
Chiến lược biển của Trung Quốc đã phát triển đáng kể trong nhiều thập kỷ qua. Trung Quốc đang phát triển kinh tế biển và Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc (PLA) đang “thực hiện ‘các yêu cầu chiến lược phòng vệ biển gần, bảo vệ biển xa.’” Do đó, trọng tâm của các chủ thể dân sự và quân sự của Trung Quốc cho đến nay chủ yếu là thăm dò mặt biển, bảo vệ chuỗi đảo thứ nhất (một phần thông qua việc thiết lập các cơ sở vật chất lâu dài ở Biển Đông) và mở rộng sự hiện diện trên biển của Trung Quốc ở Ấn Độ Dương và xa hơn nữa. Bên cạnh đó, các chủ thể nhà nước cũng đang ngày càng để tâm tới các miền “biển sâu” (shenhai) và “dưới biển” (haidi). “Chương trình nghị sự về đại dương của Trung Quốc cho thế kỷ 21,” do Đại hội đại biểu nhân dân toàn quốc CHND Trung Quốc công bố năm 2009 nhận định rằng “ngành công nghiệp biển trong tương lai” bao gồm việc sử dụng năng lượng đại dương, khai khoáng biển sâu và “ngành công nghiệp thông tin biển” (haiyang xinxi chanye). Kế hoạch 5 năm lần thứ 14, giai đoạn từ năm 2021 đến 2025, tiếp tục nhắc lại các lĩnh vực này và đưa “kỹ thuật biển sâu” vào thành một phần của “các công nghệ tiên tiến” cần được theo đuổi trong thập kỷ tới. Con đường Tơ lụa Kỹ thuật số của Trung Quốc mới chỉ được ra mắt vào năm 2015, nhưng hiện nhiều dự án liên quan đến sáng kiến này đã bắt đầu triển khai trong khuôn khổ các chương trình quốc gia như “thông tin hóa” và “Trung Quốc kỹ thuật số”. Trong Kế hoạch 5 năm lần thứ 13, giai đoạn từ năm 2016 đến 2020, liên kết giữa chiến lược biển và các mục tiêu kỹ thuật số đã được hình thành rõ ràng hơn với việc Trung Quốc mở rộng các “dự án” được coi là một phần của công tác “bảo vệ quyền và lợi ích biển,” bao gồm các hoạt động thăm dò biển và quan sát đại dương toàn cầu. Trong Kế hoạch 5 năm lần thứ 14, Trung Quốc kỹ thuật số được dành riêng một chương, thể hiện rõ hơn mong muốn của nước này trong việc “tăng cường ứng dụng đổi mới các công nghệ kỹ thuật số quan trọng”, bao gồm “vi mạch cao cấp, hệ điều hành, thuật toán AI quan trọng, cảm biến, v.v.” Trong bài phát biểu khai mạc Diễn đàn Sáng kiến Vành đai và Con đường (BRI), Chủ tịch Tập Cận Bình nói rằng để “kiên trì phát triển theo hướng đổi mới”, Trung Quốc phải vươn lên trong các lĩnh vực đa dạng như “kinh tế kỹ thuật số, trí tuệ nhân tạo, công nghệ nano và máy tính lượng tử, thúc đẩy xây dựng big data, điện toán đám mây và thành phố thông minh,” đồng thời xây dựng liên kết giữa các hệ thống này.
Để thu hẹp phạm vi, tôi đối chiếu với ba lĩnh vực tương đồng với nhau: chiến lược biển Trung Quốc, các mục tiêu kỹ thuật số và miền biển sâu. Trong các lĩnh vực này, có ít nhất có ba phương diện thể hiện không gian chiến lược đang mở rộng của Trung Quốc. Đầu tiên, cáp quang ngầm thể hiện khả năng kết nối viễn thông – một phần cơ sở của Con đường Tơ lụa Kỹ thuật số. Thứ hai, để đặt cáp và tiến hành nghiên cứu đại dương, các công ty và chính phủ phải lập bản đồ đáy biển. Thứ ba, các mạng lưới viễn thông toàn cầu đòi hỏi phải có các khoáng sản quan trọng làm đầu vào cho kiến trúc kỹ thuật số, và do đó khai khoáng biển sâu những nguyên liệu đó đang dần trở nên cần thiết hơn về mặt kinh tế (cũng như về mặt công nghệ).
Viễn thông dưới mặt biển
Các kế hoạch của Trung Quốc đối với Con đường Tơ lụa Kỹ thuật số thể hiện tầm quan trọng của “kết nối cơ sở vật chất” đối với “các kế hoạch xây dựng cơ sở hạ tầng và hệ thống tiêu chuẩn kỹ thuật… [cần thiết] để hình thành một mạng lưới cơ sở hạ tầng kết nối tất cả các tiểu vùng trong Châu Á và giữa Châu Á, Châu Âu và Châu Phi”. Kế hoạch Hành động BRI cũng nêu rõ rằng Trung Quốc “nên kết hợp thúc đẩy đồng thời việc xây dựng các tuyến cáp quang xuyên biên giới và các mạng lưới đường trục truyền thông khác, cải thiện kết nối truyền thông quốc tế và tạo ra Con đường Tơ lụa Thông tin”. Kế hoạch cũng chỉ ra rằng Trung Quốc “nên đẩy nhanh công tác xây dựng các mạng cáp quang song phương xuyên biên giới, lập kế hoạch cho các dự án cáp quang ngầm xuyên lục địa và cải thiện các tuyến thông tin không gian (vệ tinh) để mở rộng trao đổi thông tin và hợp tác”. Theo AidData, có hơn 500 dự án liên quan đến truyền thông mà Trung Quốc đã tài trợ từ năm 2000 đến năm 2017. Hầu hết các dự án này diễn ra trước khi Trung Quốc công bố chiến lược thương hiệu Con đường tơ lụa kỹ thuật số, nhưng đã đặt nền tảng cho khả năng kết nối kỹ thuật số lớn hơn. Mặc dù khối lượng các dự án kỹ thuật số của Trung Quốc rất lớn, nhưng xét về các liên kết viễn thông dưới biển, thì các công ty Trung Quốc vẫn chưa chiếm ưu thế. Theo TeleGeography (một công ty tư vấn trong ngành) và phân tích của Financial Times, nhà cung cấp Trung Quốc HMN Technologies (tên gọi mới là Huawei Marine Networks) “chỉ cung cấp hoặc dự kiến cung cấp thiết bị cho 10 phần trăm tổng số cáp toàn cầu hiện có và đang được quy hoạch tại những nơi nhà cung cấp này được biết đến”. Tuy nhiên, con số này có thể là ước tính thấp hơn thực tế. Các tài liệu quảng cáo của HMN Tech nói rằng công ty này tham gia vào “hơn 100 dự án cáp ở 70 quốc gia”, nhưng không rõ có bao nhiêu trong số các dự án đó là cáp ngầm thay vì cáp trên cạn. Trong số các dự án cáp ngầm có sự tham gia của Trung Quốc (tại những nơi có thể xác định được quyền sở hữu), Huawei chiếm khoảng 45%. 55% còn lại trong số các dự án cáp ngầm của Trung Quốc được phân cho China Unicom, China Telecom và China Mobile.
Lập bản đồ Miền Dưới mặt biển
“Chương trình Nghị sự về Đại dương của Trung Quốc trong thế kỷ 21” nhấn mạnh nhu cầu của nước này đối với việc phát triển các công nghệ quan sát đại dương, các chương trình cảm biến từ xa và kỹ thuật số, và tăng cường xử lý dữ liệu bằng máy tính. Theo phác thảo của một tài liệu phân tích học thuật về lịch sử của dự án Đại dương Kỹ thuật số, ý tưởng này đã từng được đề xuất vào năm 1999, và vào năm 2003, chương trình “khảo sát toàn diện các đại dương ngoài khơi” đã được triển khai với nguồn tài trợ từ dự án đặc biệt 908. Trong Kế hoạch 5 năm lần thứ 13, chính phủ Trung Quốc kêu gọi hiện thực hóa “mạng lưới quan sát đại dương toàn cầu đa chiều” này. Các mục tiêu đối với mạng lưới giám sát đại dương tổng thể sau đó được nhắc lại trong Kế hoạch 5 năm lần thứ 14, bổ sung “các hệ thống giám sát trực tuyến theo thời gian thực và các trạm quan sát (giám sát) ở nước ngoài đối với môi trường biển” vào “tăng cường quan sát và nghiên cứu về hệ sinh thái biển, dòng hải lưu và khí tượng biển”. Mặc dù các hệ thống giám sát biển này có thể tập trung vào nghiên cứu khoa học về môi trường, khí tượng và các nghiên cứu khoa học liên quan, nhưng phép đo độ sâu cơ bản là cần thiết để đặt cáp ngầm và tiến hành khai khoáng biển sâu.
Khai khoáng Biển sâu
Do nhu cầu đối với các khoáng sản quan trọng trên toàn cầu tăng lên, các công ty và quốc gia đang tìm kiếm nguồn mới sẽ bắt đầu khai khoáng đáy biển sâu. Theo các chuyên gia tại dự án Tài nguyên Khoáng sản Biển Toàn cầu của Cục Khảo sát Địa chất Hoa Kỳ, “hoạt động khai thác thương mại dưới đáy biển sâu sẽ được tiến hành trong vòng nửa thập kỷ”. Các công ty đang thăm dò “mật độ của các kim loại như đồng, kẽm, vàng và bạc”, đồng thời quan tâm tới các nốt mangan có khả năng chứa niken, đồng, coban và lithium. Một bài báo được công bố trên tạp chí Trung Quốc Strategy and Policy nhấn mạnh vai trò của các khoáng sản quan trọng nằm ở đáy biển khu vực các đảo Thái Bình Dương, chỉ ra rằng khu vực này có khả năng có các mỏ chứa nhiều nốt mangan đa kim và lớp vỏ coban mangan, cùng với các kim loại tiềm năng khác. Bài báo cũng diễn tả “đẩy mạnh phát triển các nguồn tài nguyên biển sâu là một bước để tăng cường quản trị biển” và theo đuổi “hợp tác tài nguyên biển Nam Thái Bình Dương” sẽ giúp mở rộng “không gian biển của Trung Quốc”.
Mở rộng “không gian biển” tại biển sâu sẽ làm dấy lên tranh luận giữa các quốc gia-dân tộc, chính phủ và các tổ chức quốc tế. Ai sở hữu tài nguyên đáy biển ở vùng biển nằm bên ngoài vùng quyền tài phán quốc gia? Ai kiểm soát quyền tiếp cận những dữ liệu thu được từ việc lập bản đồ đáy biển? Liên Hợp Quốc tuyên bố giai đoạn 2021-2030 là “Thập kỷ Khoa học Biển vì Sự phát triển Bền vững”, với mục tiêu “phối hợp lập bản đồ toàn bộ biển trên thế giới”. Thu thập và chia sẻ dữ liệu này có thể sẽ thúc đẩy nghiên cứu khoa học và tận dụng tài nguyên đáy biển, nhưng cũng sẽ dẫn đến bất đồng. Năm 2021, quốc đảo Thái Bình Dương Nauru thông báo tới Cơ quan quản lý Đáy biển Quốc tế (ISA) về mong muốn thăm dò khai khoáng biển sâu trong vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của họ, và thông báo này yêu cầu ISA phải hoàn thiện các quy định về quản trị đối với ngành khai khoáng biển sâu. Các quy định này lẽ ra đã được ban hành, nhưng vào tháng 7 năm 2023, một nhóm các quốc đảo Thái Bình Dương đã kêu gọi tạm ngừng khai khoáng để có thêm thời gian nghiên cứu các tác động đối với môi trường.
Tác động đối với Miền Kỹ thuật số dưới mặt biển
Sự mở rộng của Con đường Tơ lụa Kỹ thuật số trên toàn cầu mang đến những hệ luỵ đối với khả năng kết nối và quyền truy cập các mạng truyền thông, kiểm soát dữ liệu và tài nguyên khoáng sản biển sâu, và bảo vệ môi trường. Đối với mỗi lĩnh vực được bàn tới trong bài luận này – cáp viễn thông ngầm, lập bản đồ đáy biển hay khai khoáng biển sâu – việc thăm dò và mở rộng đều đặt ra những câu hỏi quan trọng về an ninh, tính bền vững, quyền sở hữu và các quy định chung. Phần này của bài luận coi tập hợp những hệ luỵ trên là điểm khởi đầu cho các cuộc thảo luận trong tương lai trên toàn cầu.
Đối với kết nối viễn thông, người dân, các tổ chức và chính phủ quan ngại về nguy cơ gián đoạn (cố ý hay tự nhiên) và tính ổn định của quyền truy cập dữ liệu và mạng. Hai vụ việc gần đây càng làm dấy lên một số các quan ngại này. Tháng 02 năm 2023, một số cáp ngầm kết nối Đài Loan và đảo Mã Tổ nằm ở rìa ngoài của nước này bị cắt đứt – một cáp đứt do mỏ neo của tàu chở hàng và cáp còn lại do tàu đánh cá Trung Quốc. Các tàu nghi vấn khẳng định sự cố tình này chỉ là tai nạn, nhưng các báo Đài Loan đưa tin rằng hoạt động nạo vét cát trái phép đang trở nên thường xuyên hơn xung quanh đảo Mã Tổ và có thể cũng góp phần vào các vụ việc này. Bất kể nguyên nhân là gì, kết nối internet tại Mã Tổ đã bị gián đoạn, ảnh hưởng đến các dịch vụ y tế, giao dịch tài chính, giao thông vận tải và thông tin liên lạc. Vào tháng 10 năm 2023, một sự cố cáp thứ hai đã xảy ra, lần này là bên ngoài vùng biển ngoại vi của Trung Quốc. Vào ngày 08 tháng 10, hoạt động địa chất bị phát hiện ở Biển Baltic và sau đó các cơ quan chính phủ xác nhận rằng “một đường ống dẫn khí đốt dưới biển và cáp viễn thông giữa Phần Lan và Estonia” đã bị hư hại. Chính quyền Phần Lan cho rằng nguyên nhân có thể do tàu MV Polar Bear treo cờ Hồng Kông và thuộc sở hữu của Trung Quốc, và họ đặt câu hỏi liệu lực kéo của mỏ neo làm hỏng đường ống có phải là vô tình hay không.
Để đảm bảo tính bền vững của các mạng kỹ thuật số cho công dân, các chính phủ quốc gia có thể cần xem xét lại vai trò của họ đối với các mạng chủ yếu do các tập đoàn tư nhân sở hữu và vận hành. Trong khi các sự cố như đã xảy ra ở gần các đảo khu vực rìa của Đài Loan và ở Biển Baltic là đáng lo ngại, thì gián đoạn cáp ngầm cũng có thể xảy ra do thiên tai. Năm 2022, tuyến cáp ngầm quốc tế kết nối Đảo Tonga ở Thái Bình Dương bị đứt do núi lửa Hunga Tonga–Hunga Ha’apai phun trào. Việc sửa chữa tuyến cáp quốc tế kết nối với Fiji mất hơn một tháng do nhiều vết đứt dọc trên tuyến cáp Tonga. Việc sửa chữa tuyến cáp trong nước thậm chí còn mất nhiều thời gian hơn và phản ánh tình trạng hạn chế về năng lực sửa chữa trên toàn thế giới. Ở vùng cận Sahara Châu Phi, hiện chỉ có một tàu sửa chữa cáp quang ngầm đang hoạt động, đó là Leon Thevenin, thuộc sở hữu của Orange Marine. Leon Thevenin đã hoạt động trong hơn 40 năm, là tàu sửa chữa cáp lâu đời thứ hai.
Các nỗ lực lập bản đồ đáy biển không phải là điều gì mới đối với Trung Quốc, nhưng có rất nhiều mối quan ngại về môi trường và an ninh. Năm 2015, Tổng công ty Đóng tàu Nhà nước Trung Quốc, một doanh nghiệp nhà nước của Trung Quốc, công bố kế hoạch xây dựng một mạng lưới cảm biến dưới mặt nước ở Biển Đông. Hệ thống này, được gọi là “Vạn lý trường thành dưới nước”, có thể được sử dụng để nghiên cứu hải dương học, giám sát môi trường, giám sát chiến thuật và khảo sát đáy biển. Việc sử dụng cảm biến dữ liệu dưới nước có ý nghĩa đối với an ninh, kinh tế và biến đổi khí hậu, cũng như mối quan hệ giữa các vấn đề này. Để giải quyết các mục tiêu phi cacbon hóa, các quốc gia cần giảm dấu chân năng lượng của các trung tâm dữ liệu. Do đó, đặt các hệ thống sử dụng nhiều năng lượng dưới nước có thể có ý nghĩa trong việc làm mát. Khi cơ sở hạ tầng kỹ thuật số dưới nước được mở rộng, câu hỏi làm thế nào để đảm bảo an toàn và an ninh trở nên phức tạp hơn.
Các tổ chức quốc tế như Đại hội đồng Liên Hợp Quốc và các tổ chức khu vực như Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) đã tuyên bố rằng cáp ngầm là “cơ sở hạ tầng quan trọng”. Nhưng ai chịu trách nhiệm bảo vệ cơ sở hạ tầng quan trọng này trong cộng đồng toàn cầu? Một trung tâm dữ liệu trong phạm vi mười hai hải lý của một quốc gia sẽ thuộc quyền tài phán của quốc gia đó, theo Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển, vậy còn các trung tâm dữ liệu ở vùng biển quốc tế thì như thế nào? Một trung tâm dữ liệu trong EEZ có cần các biện pháp bảo vệ riêng biệt không và nếu có thì các biện pháp bảo vệ đó được cung cấp như thế nào? Còn phần nhiều các EEZ chồng lấn và có tranh chấp tồn tại ở Châu Á – Thái Bình Dương thì sao? Các quốc gia quyết định đặt cơ sở hạ tầng này ở đâu và các quy tắc và chuẩn mực để đảm bảo an toàn và an ninh là gì?
Đối với khai khoáng biển sâu, nhiều cuộc tranh luận về quy tắc tương tự đang nổi lên. Các quốc gia có EEZ lớn phải nghĩ cách quản lý tài nguyên dưới đáy biển, nhận ra rằng đáy biển đang trở thành nơi cạnh tranh. Khai khoáng biển sâu vẫn chưa phổ biến, nhưng khi cạnh tranh công nghệ giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc thúc đẩy nhiều trường hợp các quốc gia cố gắng kiểm soát hoặc tiếp cận các khoáng sản quan trọng, thì khai khoáng đáy biển có thể sẽ trở nên hấp dẫn hơn. Vào tháng 7 năm 2023, Trung Quốc đã thông qua một loạt các biện pháp kiểm soát xuất khẩu gali và germani. Vào tháng 8, Trung Quốc ngừng xuất khẩu hai khoáng sản quan trọng này – cả hai đều được sử dụng trong nhiều hoạt động khác nhau, bao gồm chất bán dẫn, bóng bán dẫn và các thiết bị điện tử nhỏ khác. Mở rộng kết nối kỹ thuật số thông qua cáp ngầm, lập bản đồ đáy biển và khai thác các mỏ khoáng sản quan trọng đều có khả năng trở thành các mặt của quan hệ quốc tế trong thập kỷ tới. Trung Quốc đã triển khai các kế hoạch của họ thông qua Con đường Tơ lụa Kỹ thuật số, nhưng khi công nghệ phát triển, các không gian chiến lược mới đang mở ra. Các kế hoạch kỹ thuật số sẽ ngày càng tính đến miền dưới mặt nước khi việc sử dụng các trung tâm dữ liệu dưới nước và các công nghệ liên quan đi gặt hái thành quả. Việc mở rộng kỹ thuật số và dưới mặt nước sẽ làm tăng không gian chiến lược của Trung Quốc. Tuy nhiên, đối với các quốc gia khác, những tác động về môi trường và tiền tệ của xu hướng này có thể cản trở không gian chiến lược của riêng họ. Khi cạnh tranh ngày càng gay gắt, chúng ta cần đặt ra những câu hỏi khó về quyền truy cập, kiểm soát, tính bền vững và khả năng quản lý để công dân và các quốc gia có thể đưa ra những lựa chọn hiệu quả về cách mà tương lai kỹ thuật số dưới nước sẽ diễn ra.
Chú thích
[1] April A. Herlevi and Christopher Cairns, “China’s Activities in the Pacific Island Countries: Laying the Foundations for Future Access in Oceania?” in Enabling a More Externally Focused and Operational PLA, ed. Roger Cliff and Roy D. Kamphausen (Carlisle: U.S. Army War College Press, 2022), 111.
[2] Trong tiếng Anh, các thuật ngữ này được dịch là subsea, undersea, submarine hoặc deep-sea. Mặc dù có một số khác biệt nhỏ giữa subsea và deep-sea trong ngữ cảnh tiếng Trung, ở đây tác giả sử dụng các thuật ngữ này có thể thay thế cho nhau.
[3] Xinhua, “Xi Jinping zai ‘yi dai yi lu’ guoji hezuo gaofeng luntan kai mu shi shang de yanjiang” [Speech by Xi Jinping at Belt and Road International Cooperation Summit and Forum Opening Ceremony], Xinhua, May 14, 2017, http://www.xinhuanet.com/world/2017-05/14/c_1120969677.htm.
[4] Analysis of undersea telecommunications cables and potential risks to those networks represents an important growing area of scholarly and policy research. See, for example, Camino Kavanagh, “Wading Murky Waters: Subsea Communications Cables and Responsible State Behavior,” UN Institute for Disarmament Research, 2023; Tara Davenport, “Intentional Damage to Submarine Cable Systems by States,” Hoover Institution, Aegis Series Paper, no. 2305, October 26, 2023; and Elsa B. Kania, “Enhancing the Resilience of Undersea Cables in the Indo-Pacific,” S. Rajaratnam School of International Studies, RSIS Commentary, August 21, 2023.
[5] National Development and Reform Commission, Ministry of Foreign Affairs, and Ministry of Commerce of the People’s Republic of China (PRC), “Action Plan on the Belt and Road Initiative,” March 2015, http://english.www.gov.cn/archive/publications/2015/03/30/content_281475080249035.htm.
[6] Đã dẫn, xem chú trích trên.
[7] Samantha Custer, “Tracking Chinese Development Finance: An Application of AidData’s TUFF 2.0 Methodology,” AidData, William and Mary, September 2021, https://www.aiddata.org/publications/aiddata-tuff-methodology-version-2-0.
[8] Các công ty như Huawei, China Unicom, China Telecom, China Mobile và HMN Technologies đều đã tham gia vào các dự án trong lĩnh vực viễn thông.
[9] Anna Gross et al., “How the U.S. Is Pushing China Out of the Internet’s Plumbing,” Financial Times, June 12, 2023, https://ig.ft.com/subsea-cables. Theo phân tích của Financial Times, công ty ASN của Pháp cung cấp 41% thiết bị và công ty SubCom của Hoa Kỳ cung cấp khoảng 21% nguồn cung toàn cầu.
[10] Australian Strategic Policy Institute (ASPI), “Mapping China’s Tech Giants,” 2021, https://chinatechmap.aspi.org.au. Phân tích của tác giả về dữ liệu ASPI được tải xuống vào tháng 12 năm 2022.
[11] Đã dẫn
[12] Li Sihai, Jiang Xiaoyi, and Zhang Feng, “Wo guo shuzi haiyang jianshe jinzhan yu zhanwang” [Our Country’s Digital Ocean Construction Progress and Forecast], Ocean Development and Management, June 2010, http://www.haiyangkaifayuguanli.com/hykfygl/ch/reader/view_abstract.aspx?file_no=100613&flag=1.
[13] U.S. Geological Survey, Coastal and Marine Hazards and Resources Program, “How Will Underwater Mining Affect the Deep Ocean? Growing a Research Community to Find Out,” May 31, 2018, https://www.usgs.gov/news/how-will-underwater-mining-affect-deep-ocean-growing-research-community-find-out.
[14] Liang Jia-Rui, “Zhongguo-Dayangzhou-Nantai pingyang lanse jingji tongdao goujian: jichu, kunjing, and gouxiang” [China-Oceania-South Pacific Blue Economic Passage Construction: Foundation, Dilemma, and Conception], Zhanlüe yu juece 3 (2018).
[15] Đã dẫn.
[16] “Undersea Cables, Geoeconomics, and Security in the Indo-Pacific: Risks and Resilience” (hội nghị do Trung tâm các vấn đề Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương tại Đại học Hawai’i ở Mānoa tổ chức ngày 26–27 tháng 10 năm 2023). Cơ quan Quản lý Đáy biển Quốc tế, Liên minh Viễn thông Quốc tế, Tổ chức Thủy văn Quốc tế và các tổ chức quốc tế khác đều có thể đóng vai trò trong các khía cạnh riêng biệt của những vấn đề này trong thập kỷ tới.
[17] “Seabed 2023,” Nippon Foundation and General Bathymetric Chart of the Oceans, https://seabed2030.org/about.
[18] Helen Reid, “Pacific Island of Nauru Sets Two-Year Deadline for UN Deep-Sea Mining Rules,” Reuters, June 29, 2021, https://www.reuters.com/business/environment/pacific-island-nauru-sets-two-year-deadline-deep-sea-mining-rules-2021-06-29.
[19] “ISA Assembly Concludes Twenty-Eighth Session with Participation of Heads of States and Governments and High-Level Representatives and Adoption of Decisions on the Establishment of the Interim Director General of the Enterprise,” ISA, Press Release, August 2, 2023, https://www.isa.org.jm/news/isa-assembly-concludes-twenty-eighth-session-with-participation-of-heads-of-states-and-governments-and-high-level-representatives-and-adoption-of-decisions-on-the-establishment-of-the-interim-director.
[20] Stephen Wright, “Deep-Sea Mining Tussle Highlights Divide among Pacific Island Nations,” Radio Free Asia, July 20, 2023, https://www.rfa.org/english/news/environment/pacific-deep-sea-mining-07202023003741.html.
[21] Yau-Chin Tsai, “The Influence of Matsu Undersea Cable Interruption on Taiwan’s National Defense Security,” Institute for National Defense Security Research, Newsletter, July 28, 2023.
[22] Đã dẫn.
[23] “Seismic Signal Detected in Vicinity of Gas Pipelines in the Eastern Baltic Sea,” NORSAR, October 10, 2023; and “The Damage to a Baltic Undersea Cable Was ‘Purposeful,’ Swedish Leader Says but Gives No Details,” Associated Press, October 24, 2023, https://apnews.com/article/sweden-estonia-damage-cable-finland-telecoms-pipeline-19c7f951b833b709cdf5f74b9a2dd221.
[24] Andrius Sytas, “Estonia Focuses on Chinese Vessel in Investigation into Underwater Cable Damage,” Reuters, October 25, 2023, https://www.reuters.com/world/europe/estonia-focuses-chinese-vessel-investigation-into-underwater-cable-damage-2023-10-25. The author thanks Chris Kremidas-Courtney, a senior fellow at Friends of Europe (a Brussels-based think tank), for sharing this news report.
[25] Kavanagh, “Wading Murky Waters”.
[26] For more on the legal issues surrounding intentional disruptions, see Davenport, “Intentional Damage to Submarine Cable Systems.”
[27] Dan Swinhoe, “Tonga’s International Subsea Cable Repaired after Volcanic Eruption,” Data Centre Dynamics, February 22, 2022, https://www.datacenterdynamics.com/en/news/tongas-international-subsea-cable-repaired-after-volcanic-eruption.
[28] Jess Auerbach Jahajeeah, “Down to the Wire: The Ship Fixing Our Internet,” Continent, November 25, 2023, 11–15. Orange Marine trước đây là France Telecom Marine và chuyên lắp đặt và bảo trì cáp ngầm. Xem Orange Marine, “Who We Are,” https://marine.orange.com/en/who-we-are.
[29] Catherine Wong, “‘Underwater Great Wall’: Chinese Firm Proposes Building Network of Submarine Detectors to Boost Nation’s Defence,” South China Morning Post, May 19, 2016, https://www.scmp.com/news/china/diplomacy-defence/article/1947212/underwater-great-wall-chinese-firm-proposes-building.
[30] Dolma Tsering, “China’s ‘Undersea Great Wall’ Project: Implications,” National Maritime Foundation, December 9, 2016, https://maritimeindia.org/wp-content/uploads/2021/02/CHINA-UNDERSEA-GREAT-WALL-PROJECT-IMPLICATIONS.pdf.
[31] Yujie Xue, “Climate Change: China’s Data Centres and Telecoms Networks in Beijing’s Sights as Key Targets for Decarbonisation,” South China Morning Post, October 13, 2022, https://www.scmp.com/business/article/3195779/climate-change-chinas-data-centres-and-telecoms-networks-beijings-sights.
[32] Davenport, “Intentional Damage to Submarine Cable Systems,” 1; and Mark Bryan Manantan, “The ASEAN-Quad Partnership in Undersea Cables: Building Inclusion, Sustainability, and Regional Connectivity,” Australian National University, October 2023, https://nsc.crawford.anu.edu.au/publication/21533/asean-quad-partnership-undersea-cables-building-inclusion-sustainability-and.
[33] Isaac Kardon and Sarah Camacho, “Why China, Not the United States, Is Making the Rules for Deep-Sea Mining,” Carnegie Endowment for International Peace, December 19, 2023, https://carnegieendowment.org/2023/12/19/why-china-not-united-states-is-making-rules-for-deep-sea-mining-pub-91298.
[34] Những cuộc tranh luận gần đây về khai thác biển sâu thậm chí còn thúc đẩy ra đời những bộ phim tài liệu mới, chẳng hạn như Deep Rising.
[35] “PRC Imposes Critical Mineral Restrictions,” CNA, Intersections, October 2023, https://www.cna.org/our-media/newsletters/intersections/issue-6.
[36] Amy Lv and Dominique Patton, “China Exported No Germanium, Gallium in August after Export Curbs,” Reuters, September 20, 2023, https://www.reuters.com/world/china/china-exported-no-germanium-gallium-aug-due-export-curbs-2023-09-20.
———-
April A. Herlevi là Nghiên cứu viên không thường trú tại Cục Nghiên cứu Châu Á Quốc gia. Dương Ngô là ứng viên cộng tác với Dự án Đại Sự Ký Biển Đông. Có thể đọc bài viết gốc ở đây: https://strategicspace.nbr.org/chinas-strategic-space-in-the-digital-undersea/
Nguyên tắc hoạt động của Dự án Đại Sự Ký Biển Đông.
—————
Dự án Đại Sự Ký Biển Đông tồn tại dựa trên tài trợ của cộng đồng. Nếu quý độc giả muốn có một nguồn thông tin tri thức khách quan, đa chiều, hệ thống hoá và có chiều sâu chuyên môn, dựa trên dữ liệu (facts-based), Dự án Đại Sự Ký Biển Đông là một địa chỉ mà mọi người có thể tin tưởng. Hãy chung tay cùng với chúng tôi duy trì Dự án bằng cách tài trợ cho Dự án, và khuyến khích bạn bè, đồng nghiệp cùng tài trợ Dự án. Xem hướng dẫn tài trợ ở đây: https://dskbd.org/tai-tro-cho-du-an/. Báo cáo tài chính sẽ được tổng kết vào cuối năm. Chúng tôi xin trân trọng cảm ơn.
