(Trích trong Chuyên mục “Mỗi tuần một chương sách” của Bản Tin Biển Đông Số 139. Truy cập tại https://dskbd.org/2024/02/07/ban-tin-bien-dong-so-139-part-ii/)
Gregory B. Poling (2022). On Dangerous Ground – America’s Century In the South China Sea. Oxford University Press Inc.
Chương 5: America and the Free Seas, Part II 1967 – 1982
Chương sách tiếp theo trình bày về quá trình đàm phán UNCLOS và sự tham gia của Hoa Kỳ từ năm 1967 đến 1982. Những năm 1960 cho thấy cần thay đổi về chế độ luật biển với sự đồng thuận của cả các nhóm quốc gia phát triển và đang phát triển. Chế độ pháp lý mới dẫn đến những bất đồng mới, đặc biệt là ở khu vực Biển Đông, đi cùng những thảo luận mở rộng về lợi ích của nhiều quốc gia bên ngoài, bao gồm Hoa Kỳ với quyền tự do trên biển.
Sau Hội nghị UNCLOS II, các thảo luận về chiều rộng lãnh hải vẫn tiếp tục. Vào cuối những năm 1960, khi Liên Xô đầu tư vào các hoạt động trên biển và thể hiện sự lo ngại về xu hướng yêu sách ngày càng mở rộng của các quốc gia ven biển, Liên Xô và Hoa Kỳ đã đi đến sự đồng thuận mới: chấp nhận lãnh hải rộng 12 hải lý; đổi lại tàu, tàu ngầm và máy bay sẽ cần phải được đảm bảo các quyền quá cảnh bình thường, không chỉ là việc đi lại qua các eo biển quốc tế. Và cả hai đều thừa nhận rằng các quốc gia ven biển cần được hưởng các quyền đánh bắt cá ưu đãi nhưng không độc quyền ngoài lãnh hải. Về vấn đề đáy biển, do công nghệ chưa phát triển nên hầu hết các quốc gia còn bỏ ngỏ việc xác định giới hạn ngoài của thềm lục địa và tuyên bố chủ quyền dưới đáy biển. Tuy nhiên, vẫn có những lo ngại về tranh chấp khai thác tài nguyên dưới đáy biển sâu nên vào năm 1967, Malta đề xuất rằng đáy biển nằm ngoài lãnh hải và thềm lục địa phải được tuyên bố là “di sản chung của nhân loại” dưới sự giám sát của cơ quan quốc tế, dẫn đến việc thành lập một uỷ ban đặc biệt mà sau này là Ủy ban đáy biển vào năm 1968.
Trong quá trình chuẩn bị cho UNCLOS III, nội bộ Washington có những bất đồng rằng liệu có nên ủng hộ thu hẹp hay mở rộng quyền tài phán của quốc gia ven biển tại thềm lục địa. Trước áp lực từ cộng đồng quốc tế, Hoa Kỳ chấp nhận chính sách thềm lục địa và thể hiện sẵn sàng đàm phán. Uỷ ban Đáy biển được giao nhiệm vụ giám sát soạn thảo các điều khoản và chương trình nghị sự cho UNCLOS III, với các quy định về đáy đại dương, các vấn đề về lãnh hải và nghề cá. Vượt qua những thách thức và bất đồng, UNCLOS III đã tiến hành với sự tham gia của cả các quốc gia đang phát triển và các cường quốc hàng hải.
Tiếp theo, tác giả đề cập đến giai đoạn đàm phán ban đầu tại UNCLOS III, tập trung vào các phiên họp được tổ chức tại New York và Caracas. Về mặt thủ tục, mọi quyết định phải đạt được bằng sự đồng thuận và Công ước được tạo thành một thỏa thuận trọn gói. Về mặt nội dung, có ba Uỷ ban chính do Nhóm 77 giữ vai trò dẫn đầu. Cụ thể, Ủy ban I thảo luận với việc khai thác dưới đáy đại dương, bộc lộ sự chia rẽ rõ ràng giữa các quốc gia phát triển và đang phát triển. Các bên cân nhắc liệu nên để cơ quan quốc tế quản lý đáy đại dương cấp giấy phép cho các công ty đủ điều kiện hay chính cơ quan này tự tiến hành mọi hoạt động thăm dò, khai thác và nghiên cứu. Ủy ban II giải quyết các vấn đề liên quan đến lãnh hải, nghề cá và vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) mới được đề xuất. Các cuộc tranh luận tập trung vào phạm vi quyền tài phán của quốc gia ven biển trong vùng EEZ, trong đó các cường quốc hàng hải ủng hộ các quyền ưu đãi đối với nghề cá và quá cảnh bình thường qua các eo biển quốc tế còn các quốc gia ven biển yêu cầu độc quyền trong khu vực EEZ và Công ước nên liệt kê các quyền tự do được đảm bảo cho nước khác trong vùng EEZ. Bên cạnh đó, các tranh chấp nảy sinh về việc liệu các đảo có được hưởng tất cả các quyền tương tự như các vùng đất liền lục địa hay không, bao gồm lãnh hải, thềm lục địa và vùng EEZ. Ủy ban III hướng sự thảo luận tới vấn đề ô nhiễm biển và nghiên cứu khoa học, cũng gặp những thách thức tương tự như các ủy ban khác do sự chia rẽ giữa các quốc gia phát triển và đang phát triển. Trong suốt các cuộc đàm phán, những lợi ích xung đột cản trở tiến trình nhưng đã đạt được một số thỏa hiệp nổi bật như củng cố đồng thuận về lãnh hải 12 hải lý, thỏa thuận về đường cơ sở thẳng, cơ chế giải quyết tranh chấp, hay vấn đề đi qua eo biển. Phiên họp ở Geneva đã chứng kiến việc soạn thảo Văn bản đàm phán duy nhất, mặc dù còn nhiều vấn đề chưa được giải quyết. Tuy nhiên, tiến độ đã bị cản trở bởi những bất đồng đang diễn ra về việc khai thác đáy đại dương, tạo tiền đề cho các cuộc đàm phán trong các phiên họp tiếp theo.
Giai đoạn thứ hai của quá trình xây dựng Luật Biển mới, kéo dài từ 1977 đến 1980 với các cuộc đàm phán căng thẳng về khai thác đáy đại dương xuất phát từ những bất đồng về cơ cấu và quyền lực của Cơ quan quản lý đáy đại dương (ISA) và các thỏa thuận tài chính. Hoa Kỳ theo đuổi cách tiếp cận theo hai hướng, vừa tham gia đàm phán đồng thời thúc đẩy luật pháp trong nước cho phép khai thác đáy biển (Đạo luật Tài nguyên khoáng sản cứng đáy đại dương năm 1980) để gây áp lực lên tiến trình. Trong những năm 1977 – 1978, Hoa Kỳ nỗ lực xây dựng sự ủng hộ trong nước, đồng thời thúc đẩy tái cơ cấu quá trình đàm phán để ngăn chặn những thay đổi đơn phương trong dự thảo văn bản đàm phán quốc tế. Đến các phiên họp năm 1979, Hoa Kỳ tiếp tục tận dụng Chương trình Tự do Hàng hải để xúc tiến các cuộc đàm phán. Đến năm 1980, dưới áp lực rằng Hoa Kỳ đã thông qua luật đơn phương cho phép khai thác đáy đại dương, các quốc gia khác phải đẩy nhanh các cuộc đàm phán, đạt được sự đồng thuận về quy trình ra quyết định trong ISA và giải quyết các vấn đề liên quan đến thềm lục địa mở rộng và phân định ranh giới. Cuối cùng, Dự thảo Công ước về Luật Biển đã được đưa ra và sẽ có hiệu lực sau khi được 60 quốc gia phê chuẩn.
Cuối năm 1980, việc Tommy Koh của Singapore được bầu làm Chủ tịch UNCLOS III, thay cho cựu chủ tịch Hamilton Amerasinghe đột ngột qua đời, đã tác động đáng kể đến sự phát triển của luật hàng hải. Vào ngày 30 tháng 4 năm 1982, Hội nghị đã thông qua Công ước mới của Liên hợp quốc về Luật Biển (UNCLOS). Vào ngày đầu tiên mở để ký, ngày 10 tháng 12 năm 1982, đã có 119 quốc gia đã ký kết, một kỷ lục trong lịch sử pháp lý. Dù vậy, Hoa Kỳ vẫn chưa tham gia UNCLOS do lo ngại sự phản đối có tính ý thức hệ đối với bất kỳ cơ quan quản lý quốc tế nào, dù là Liên Hợp Quốc hay ISA, sẽ khiến các nhà lập pháp Đảng Cộng hòa bỏ phiếu bác bỏ. Tuy nhiên, Hoa Kỳ vẫn nỗ lực khẳng định tuân thủ Công ước bởi hầu hết các điều khoản cốt lõi của UNCLOS đã trở thành tập quán quốc tế – điều được Tòa án Công lý Quốc tế thừa nhận. Dựa trên cơ sở này, Hoa Kỳ phản đối các yêu sách mở rộng của Trung Quốc ở Biển Đông.
Cuối cùng, chương sách xem xét đến tác động của quá trình đàm phán Luật Biển tới các tranh chấp ở khu vực Biển Đông. Đến cuối năm 1976, khi các cuộc đàm phán đạt được sự đồng thuận về những nét khái quát chung của một chế độ mới, bao gồm vùng đặc quyền kinh tế rộng 200 hải lý và thềm lục địa, các quốc gia đã bắt đầu đưa ra yêu sách. Trong số các bên yêu sách ở Biển Đông, Việt Nam có hành động đầu tiên, đưa ra tuyên bố vào 5 năm 1977 về vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa rộng 200 hải lý, tiếp theo là Philippines, Đài Loan, Indonesia và Malaysia. Trung Quốc trì hoãn đưa ra yêu sách chính thức cho đến năm 1996, nhưng lại lên tiếng ủng hộ vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa rộng 200 hải lý trong các cuộc đàm phán UNCLOS. Các quốc gia cũng dần quan tâm đến vấn đề dầu khí, như Philippines phát hiện dầu tại mỏ Nido ngoài khơi Palawan và bắt đầu khai thác thương mại vào năm 1979 hay Indonesia trao quyền thăm dò ở một số lô dầu ngoài khơi ở rìa phía nam Biển Đông cho các công ty Hoa Kỳ, còn Việt Nam phản đối do ranh giới thềm lục địa chưa phân định. Ngoài ra, việc hợp thức hóa các yêu sách hàng hải đóng vai trò quan trọng trong việc chiếm đóng Đá Công Đo ở Trường Sa của Malaysia. Đầu năm 1980, Malaysia cắm cột mốc chủ quyền trên Công Đo; vài tháng sau đó, Philippines cử lực lượng đến dỡ bỏ cột mốc và xây dựng một công trình nhỏ.
Xem nội dung chương sách tại đây. Đặt mua sách ở đây.
Nguyên tắc hoạt động của Dự án Đại Sự Ký Biển Đông.
—————
Dự án Đại Sự Ký Biển Đông tồn tại dựa trên tài trợ của cộng đồng. Nếu quý độc giả muốn có một nguồn thông tin tri thức khách quan, đa chiều, hệ thống hoá và có chiều sâu chuyên môn, dựa trên dữ liệu (facts-based), Dự án Đại Sự Ký Biển Đông là một địa chỉ mà mọi người có thể tin tưởng. Hãy chung tay cùng với chúng tôi duy trì Dự án bằng cách tài trợ cho Dự án, và khuyến khích bạn bè, đồng nghiệp cùng tài trợ Dự án. Xem hướng dẫn tài trợ ở đây: https://dskbd.org/tai-tro-cho-du-an/. Báo cáo tài chính sẽ được tổng kết vào cuối năm. Chúng tôi xin trân trọng cảm ơn.
