(Trích trong Chuyên mục “Mỗi tuần một chương sách” của Bản Tin Biển Đông Số 137. Truy cập tại https://dskbd.org/2024/01/24/ban-tin-bien-dong-so-137-phan-ii/)
Gregory B. Poling (2022). On Dangerous Ground – America’s Century In the South China Sea. Oxford University Press Inc.
Chương 3: Settling on Dangerous Ground, 1954 – 1974
Chương sách tiếp theo thảo luận về tình hình ở Hoàng Sa và Trường Sa từ những năm 1950 đến 1974. Sau Thế chiến II, Hoa Kỳ tìm cách duy trì sự hiện diện quân sự ở Châu Á để duy trì sự ổn định trong khu vực và ngăn chặn các đối thủ tiềm năng. Điều này được thực hiện thông qua các hiệp ước phòng thủ chung với các nước như Philippines, Úc, New Zealand, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc và Thái Lan và duy trì hệ thống này cho đến ngày nay. Ở những năm 1970, hầu hết các bên tranh chấp đều là đồng minh của Hoa Kỳ, và vì vậy Washington phải cân bằng uy tín với mỗi bên trước mối quan ngại các cuộc xung đột có thể khiến đồng minh này chống lại đồng minh khác.
Tác giả đề cập tình hình phức tạp của Hoàng Sa sau Hội nghị Hòa bình San Francisco năm 1951, khi các bên liên quan ít chú ý đến tranh chấp ở Biển Đông bởi các cuộc xung đột khác như nội chiến ở Trung Quốc hay Pháp phải đối diện với các cuộc nổi dậy ở Việt Nam. Trung Quốc rút khỏi Đảo Phú Lâm và Ba Bình vào năm 1950, và trên đảo Hoàng Sa chỉ có một đồn trú Pháp-Việt nhỏ. Năm 1954, sau thất bại tại Điện Biên Phủ, Pháp, Trung Quốc, Liên Xô, Anh ký Hiệp định Genève tạm thời chia cắt Việt Nam theo vĩ tuyến 17. Miền Nam Việt Nam dưới sự hậu thuẫn của Pháp và Hoa Kỳ đã từ chối ký và tuyên bố là nước kế thừa yêu sách của Pháp đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa vào năm 1956. Tháng 8 năm 1955, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (PRC) âm thầm chiếm đóng Đảo Phú Lâm, kiểm soát nửa phía đông của quần đảo Hoàng Sa trong khi phần phía tây vẫn nằm dưới sự kiểm soát của Pháp và Việt Nam. Năm 1956, quân đội miền Nam Việt Nam giải vây quân Pháp đồn trú trên đảo Hoàng Sa và chiếm đóng các đảo lân cận và sau đó quản lý quần đảo trực thuộc tỉnh Quảng Nam.
Ở Trường Sa, Paris công nhận rõ ràng chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa nhưng tuyên bố quần đảo Trường Sa là một phần của Liên minh Pháp. Kể từ năm 1950, Quần đảo Trường Sa đã không có người sau khi lực lượng Trung Hoa Dân Quốc (ROC) rời bỏ đảo Ba Bình. Cùng thời gian này, doanh nhân Hoa Kỳ John Meads ở Manila tuyên bố là người thừa kế một quốc gia độc lập ở quần đảo Trường Sa mà việc này sau đó tạo tiền đề cho doanh nhân người Philippines Tomás Cloma, với kế hoạch khai thác thương mại quần đảo, đã tuyên bố chúng là “Lãnh thổ tự do của vùng đất tự do” (Freedomland) vào năm 1956. Điều này làm dấy lên sự phản đối từ Bắc Kinh, Sài Gòn, Paris và Đài Bắc. Thậm chí, hai tàu Hải quân Cộng hòa Trung Hoa (Republic of China) đã lên tàu của Cloma để thu giữ vũ khí, bản đồ trên tàu và tháo dỡ mọi công trình. Về phía Hoa Kỳ, báo cáo giai đoạn cuối những năm 1950 thừa nhận tình trạng quốc tế chưa được giải quyết của Trường Sa và nhấn mạnh nguy cơ xung đột vũ trang. Hơn sáu mươi năm sau, Hoa Kỳ duy trì tính trung lập về chủ quyền nhưng vẫn lo ngại về bạo lực tiềm tàng xuất phát từ những tranh chấp này, do chủ nghĩa dân tộc và sự cạnh tranh về địa lý chiến lược gây ra. Sau các hoạt động của Morton Meads và Tomás Cloma ở Biển Đông, Philippines và Nam Việt Nam đã vướng vào tranh chấp lãnh thổ ở quần đảo Trường Sa. Sau chuyến thám hiểm của Cloma, miền Nam Việt Nam đã tăng cường hiện diện hải quân còn Philippines ban đầu hạn chế tham gia tích cực nhưng đã tăng cường kiểm soát bãi cạn Scarborough vào đầu những năm 1960. Năm 1965, Tổng thống Philippines Ferdinand Marcos có cách tiếp cận tham vọng hơn, chiếm đảo Nam Sa và 5 đảo nữa vì lợi ích an ninh quốc gia và kinh tế. Điều này làm dấy lên căng thẳng với ROC và miền Nam Việt Nam – cả hai đều là đồng minh của Hoa Kỳ. Philippines tiếp tục đưa ra các biện minh pháp lý cho hành động của mình, dựa trên lập luận của Cloma và Garcia, đồng thời yêu cầu quyền sở hữu vùng đất do Cloma tuyên bố cho chính phủ Philippines.
Vào tháng Giêng năm 1974, Trận chiến Hoàng Sa đã đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong việc kiểm soát quần đảo Hoàng Sa sau gần hai thập kỷ quần đảo bị chia đôi sự kiểm soát, Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Trung Hoa kiểm soát Nhóm Amphitrite phía đông và Nam Việt Nam duy trì sự hiện diện ở Nhóm Lưỡi liềm phía tây. Sau khi Hiệp định Hòa bình Paris được ký vào đầu năm 1973 giữa Hoa Kỳ, miền Nam Việt Nam, miền Bắc Việt Nam và Chính phủ Cách mạng Lâm thời, Hoa Kỳ hạn chế sự tham gia quân sự và giảm sự ảnh hưởng tới miền Nam Việt Nam, điều này tạo cơ hội cho Trung Quốc giành quyền kiểm soát quần đảo Hoàng Sa. Vào 12/1973, các tàu đánh cá Trung Quốc, có vẻ là dân sự, bắt đầu hoạt động ở phía Tây Nhóm Lưỡi Liềm, với các hoạt động leo thang xung quanh các đảo không có người chiếm đóng. Các nguồn tin của Trung Quốc miêu tả những hoạt động này là dân sự và cho rằng Hải quân Nam Việt Nam đã đối đầu gây ra căng thẳng. Một nghiên cứu của Hoa Kỳ nhận xét các tàu đánh cá của Trung Quốc được bố trí để chuẩn bị cho một cuộc tấn công đổ bộ. Trận chiến diễn ra vào 14 tháng Giêng năm 1974, khi các tàu Trung Quốc cố gắng thiết lập sự hiện diện trên đảo Hữu Nhật (Robert Island), Miền Nam Việt Nam đáp trả bằng khinh hạm HQ-16 và biệt kích. Sau khi đã chiếm đóng đảo Quang Hoà (Duncan) và Duy Mộng (Drummond), Trung Quốc đã tham gia vào một trận hải chiến và hoàn thành việc kiểm soát quần đảo Hoàng Sa với tổn thất tối thiểu. Phản ứng với sự kiện này, Hoa Kỳ bất ngờ trước cuộc đụng độ giữa miền Nam Việt Nam và Trung Quốc và các báo cáo ban đầu thiếu sự đầy đủ và tính chính xác. CIA ban đầu suy đoán rằng sự quan tâm đến quần đảo Hoàng Sa bởi triển vọng về dầu mỏ và Nam Việt Nam ở chừng mực nào đó đã khơi mào xung đột bằng cách nhắc lại yêu sách đối với quần đảo Trường Sa một vài tháng tháng trước đó. Thực tế là Trung Quốc đã chuẩn bị cho việc chiếm phần phía Tây quần đảo Hoàng Sa ít nhất từ năm 1970. Dù có đầy đủ thông tin, khó có thể hình dung Chính quyền Hoa Kỳ sẽ yêu cầu Hạm đội 7 hỗ trợ Nam Việt Nam: cả Quốc hội lẫn người dân Hoa Kỳ đều không mong muốn tái can dự về quân sự ở Việt Nam, chứ chưa nói đến những hòn đảo tranh chấp mà họ chưa từng nghe đến. Hoa Kỳ cũng không có hiệp ước phòng thủ tương hỗ với Nam Việt Nam. Tuy nhiên, nếu Hoa Kỳ hiểu sự việc cũng như lý do đằng sau, có lẽ Washington đã hỗ trợ Sài Gòn mạnh mẽ hơn về mặt ngoại giao, kể cả tại Liên Hợp Quốc.
Xem nội dung chương sách tại đây. Đặt mua sách ở đây.
Nguyên tắc hoạt động của Dự án Đại Sự Ký Biển Đông.
—————
Dự án Đại Sự Ký Biển Đông tồn tại dựa trên tài trợ của cộng đồng. Nếu quý độc giả muốn có một nguồn thông tin tri thức khách quan, đa chiều, hệ thống hoá và có chiều sâu chuyên môn, dựa trên dữ liệu (facts-based), Dự án Đại Sự Ký Biển Đông là một địa chỉ mà mọi người có thể tin tưởng. Hãy chung tay cùng với chúng tôi duy trì Dự án bằng cách tài trợ cho Dự án, và khuyến khích bạn bè, đồng nghiệp cùng tài trợ Dự án. Xem hướng dẫn tài trợ ở đây: https://dskbd.org/tai-tro-cho-du-an/. Báo cáo tài chính sẽ được tổng kết vào cuối năm. Chúng tôi xin trân trọng cảm ơn.
